Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Các quần xã thực vật trên thế giới

THÁI CÔNG TỤNG

1. Tổng quan

Nếu có ai hỏi hãy tìm chỉ một cá thể duy nhất vừa bảo đảm đất giàu, vừa điều hòa được nước và lụt, vừa phát sinh hơi nước, vừa tồn trữ cacbon, vùa thanh lọc không khí, vừa điều hòa nhiệt độ, vừa chứa động vật và thực vật, vừa làm đẹp cảnh quan thì chắc hẳn câu trả lời đó là một cây và cây lại là một phần của rừng. Trái Đất xưa kia rất nhiều rừng; rừng che phủ mọi nơi; chính do sự mục rửa cây cối trong những điều kiện nhất định đã tạo nên dầu hoả, mỏ than. Con người từ thời mới phát sinh ra cách đây mấy trăm ngàn năm cũng phải dựa vào rừng mà sống: văn minh du mục, sự săn bắn, củi đốt trong hang đá, làm nhà, đau ốm đều nương vào rừng. Không rừng, con người không có nguyên liệu, không muông thú để săn bắn.. Trong bài quốc ca của Việt Nam thời trước 1945, còn gọi là Đăng Đàn Cung, có câu hát:

Kìa núi vàng bể bạc, có sách trời, sách trời định phần...

Núi vàng không phải là núi có vàng mà ý nói là núi chứa đựng nhiều tài nguyên trong đó rừng là một. Rừng chính là vàng xanh; rừng còn qúy hơn vàng vì rừng ảnh hưởng đến khí hậu, đến thủy văn, đến sức khoẻ con người . Qủa vậy, rừng có nhiều chức năng: che chở, cung cấp, bảo vệ ..Vậy mục đích bài này là trình bày các chức năng ấy cũng như tương quan hữu cơ nhiều chiều giữa người và rừng, giữa rừng và nước, giữa nước và khí hậu v.v..

2. Các loại rừng trên thế giới

Đi từ miền xích đạo lên bắc cực, có nhiều loại rừng như sau:

2.1 Rừng mưa nhiệt đới (wet evergreen forest, còn có tên là tropical rainforest). Gặp ở vùng Amazonie của Bresil, Congo bên Phi Châu, Đông Nam Á, Indonesia . Mưa suốt bốn mùa, nhiệt độ nóng đều (tư` 24 0 đến 300 ) nên cây cối rậm rạp, giây leo chằng chịt, nhiều loài phụ sinh trên thân cây, lá xanh quanh năm; có trên 100 loài thực vật trong mỗi hecta. Lượng mưa lớn do đó rừng có nhiều tầng, cao, rậm rạp. Mặt trời ít khi xuống tận mặt đất. Cây to, dưới gốc có "bạnh" như cây bằng lăng, trên thân có phong lan, tầm gửi, mây chằng chịt. Động vật phong phú với vượn, khỉ, sóc, chim, voi, trâu rừng, thỏ.. Tuy chỉ chiếm 7 % diện tích đất nhưng trên 50% chủng loại động vật và thực vật là nằm trong loại rừng này . Do đó, đây là hòn ngọc, là hột xoàn về đa dạng sinh học của hành tinh chúng ta

Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những tre cùng nứa lấy ai bạn cùng

 
Cây mai trong ca dao là một loài tre nứa to (Sinocalamus giganteus), cao 15-20m, thường dùng trong xây dựng, làm bè mảng, ống máng dẫn nước.

Cây trúc cũng loài tre, tên khoa học là Phyllostachys, mọc nhiều vùng Thượng du và Trung Du miền Bắc. Cây trúc cũng được nhắc nhở trong ca dao:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng thế nào cũng xinh


Vì Việt Nam trải dài qua nhiều vĩ tuyến và có nhiều cao độ khác nhau nên có nhiều loại rừng. Trên Dalat có nhiều rừng thông 2 lá (Pinus merkusì), thông 3 lá (Pinus Khasya), tùng (Juniperus), bách tán (Araucaria excelsa).

Vùng Đông Bắc như Sơn La, Lai Châu, Fan Si Pan, có các cây pơmu (Fokiena hodginsì), samu (Cunninghamia lanceolata), du sam (Keteleeria davidiana) là các cây gỗ qúy.

Vùng cao độ thấp có mùa khô rõ rệt, ta gặp rừng dầu (Cheo Reo, Ban Don) gồm các cây họ Dipterocarpaceae.

Vùng mưa đều và mùa khô ít rõ rệt, có rừng dày luôn luôn xanh (Kontum, thượng nguồn Trị, Thiên, Nam, Ngãi ) Có cây trắc (Dalbergia cochinchinensis), giáng hương (Pterocarpus pedatus), cẩm lai (Dalbergia oliverrì), gụ (Sindora cochinchinensis)..

Ven biển như Ca Mau, Cần Giờ có rừng ngập mặn với cây mắm, đước, sú, vẹt

Trung Du miền bắc cũng như tại nhiều nơi khác, do đốt nương rẫy ta gặp rừng thứ sinh với tre nứa , gồm rừng tre lồ ô miền Nam, trúc ở Bắc Cạn, Thái Nguyên, nứa ở Việt Bắc. Tre nứa là loài cây ưa ẩm, ưa sáng, mọc nhanh, dùng xây nhà, làm giấy, hàng thủ công..

2.2 Rừng khô rụng lá nhiệt đới (tropical seasonal forest; forêt sèche tropicale) .Hiện diện ỏ Thái Lan, Ai Lao, Bắc Australia, miền Caraibes. Khi rời vùng xích đới đến vùng nhiệt đới thì lượng mưa hàng năm nhỏ đi và trong năm có mùa khô hạn. Thảo mộc thích nghi với mùa khô bằng cách rụng lá để tránh mất nhiều nước. Mùa thu, lá cây phong nửa vàng nửa đỏ:

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du cùng con ngườI gắn bó quyện vào nhau đến nỗi ‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ‘. Thiên nhiên thông cảm với tình người vì khi hai người yêu phải xa nhau thì vầng trăng kia cũng vì hai người mà ‘ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường’.

2.3 Savan hoặc thảo nguyên.
Khi mùa khô kéo dài quá 3 tháng và lượng mưa ít dần thì rừng nhiệt đới thưa dần và nhường chỗ cho thảo nguyên. Thảo nguyên có nhiều dạng, từ thảo nguyên có cây thưa thớt rải rác trên cánh đồng cỏ mà mùa xuân ‘cỏ non xanh tận chân trời ‘ đến thảo nguyên chỉ có thỉnh thoảng vài lùm bụi.

Sự đốt rừng nguyên thủy ở Phi Châu và châu Mỹ nhiệt đới đã tạo những thảo nguyên rộng lớn với nhiều động vật móng guốc tăng lên .Động vật có ngựa vằn, hươu cao cổ, tê giác. Chúng thích nghi với sự vận chuyển trên đồng cỏ hoang vu (thân thon, chân co dà khỏe, có guốc). Có những loài thú ăn thịt thích nghi vớI sự chạy nhanh, chúng săn bắt thú ăn cỏ (sư tử, báo ..), có những loại chim như đà điểu . Sâu bọ có cào cào, châu chấu (criquet pelerin). Vietnam có nhiều savan cỏ tranh (Imperata cylindrica).

2.4 Hoang mạc (steppe): có ở miền nhiệt đới và ôn đới.
Thực vật rất nghèo, chỉ vài cây bụi nhỏ vớI đám cỏ thấp, có rễ rất dài ăn xuống các lớp đất sâu để hút nước. Nhiều cây mọc rất nhanh về mùa xuân khi mặt đất còn ẩm ướt, chúng lớn lên ra hoa, tạo qủa trong vòng 1 tháng rồi chết. Động vật hoang mạc có lạc đà một bướu, linh dương. Sự thích nghi của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ nét biểu hiện ở các điểm chống cự được với khô nóng như giảm sự tiết mồ hôi và nước tiểu, hoạt động chủ yếu về đêm, có đời sống chui rúc trong đất.
2.5 Rừng Địa Trung Hải gồm những cây không cao qúa 5 mét như sồi xanh (Quercus ilex), sồi bần (Quercus suber). Loại rừng này gặp quanh vùng Địa Trung Hải nhưng cũng có mặt ở Cali (Mỹ) và bắc Mexico mà danh từ địa phương gọi là ‘chapparal ‘, miền Nam Australi.

2.6 Rừng ôn đới có lá rụng (Temperate deciduous forest, còn gọi là hardwood forest ; forêt feuillue tempérée) phát triển mạnh ở Đông Canada, Đông Bắc Hoa Kỳ, Tây Âu và Đông Âu.

Có quãng 60 loài cây khác nhau như sồi (oak), hêtre (beech), phong (maple).

Có ba loại quần xã như có nhiều loại sồi (chênaie), cây phong (érablière) và cây hêtre (hetraie). Gặp đông Hoa Kỳ, Đông Trung Hoa, Đức, Pháp, Anh... Riêng Quebec loại rừng này gặp vùng Montreal, Sherbrooke, Trois-Rivières, Hull

Có lá rụng mùa thu: Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu


Hay:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Lượng mưa vừa phải; lá rụng vào thu, tạo một lớp lá khô dày đặc trên đất.
Có nhiều thú như hươu, nai, gấu, chó sói. Meleze, bouleau, erable, peuplier.

2.7 Rừng mưa ôn đới (temperate rainforest; forêt pluviale tempérée)
Có ai đã đi Vancouver và miền Bắc British Columbia thì chắc hẳn nhận thấy vùng này mưa nhiều, mưa quanh năm và ít tuyết. Gặp ở Tây Bắc Hoa Kỳ như tiểu bang Washington, Oregon, gặp ở Tây Bắc Canada như bắc Vancouver. Ngoài ra, rừng này có ở Tân Tây Lan (New Zealand), Đông Australia . Cây Sequoia, cây Eucalyptus là các loại thường thấỵ

2.8 Rừng lá kim miền Bắc (Northern Coniferous forest; forêt boréale). Chiếm đến ba phần tư ở tỉnh bang Quebec vì trải rộng từ vĩ tuyến 49 đến vĩ tuyến 52. Trên thế giới, loại rừng này có mặt ở Canada, Bắc Âu, Siberia, Nam Alaska .Riêng Quebec, các vùng bắc Baie Comeau, bắc Sept Iles, bắc Abitibi có nhiều loại rừng này. Đây là rừng thông phương bắc có những loài cây lá nhọn như thông (Pinus), linh sam (Abies), vân sam (Epicea), thông rụng lá (Larix), có chen cây bu lô (bouleau) làm giấy.

2.9 Thảo nguyên: thảo nguyên rừng ôn đới thì mùa hạ vẫn nóng và dài, mùa đông thì đỡ lạnh vì có ít tuyết. Bò bison, ngựa hoang, caribou. Tính chất sống theo đàn, vận chuyển nhanh, di cư.

2.10 Rừng taiga
Phía nam của đồng rêu toundra, ta gặp một loại quần xã thực vật bắt đầu có rải rác cây epicea. Cũng cần lưu ý là cây epicea thì Quebec gọi là épinette và có rất nhiều miệt Abitibi, dùng làm bột giấỵ (Épinette tức spruce tiếng Anh)

Khí hậu rừng taiga lạnh, mùa đông kéo dài. Động vật có hươu (Cervus canadensis), nai (Alces americana), thú ăn thịt như gấu, chó sói, cáo .

2.11 Đồng rêu đới lạnh (toundra) nằm trên các vùng có băng đóng vĩnh viễn trên mặt đất. Ngày mùa hạ rất dài . Mùa đông, đêm kéo dài hàng tháng. Do đó thực vật chỉ là rêu.

Cùng một vùng khí hậu, nhưng các quần xã thực vật khác nhau vì tính chat lý hoá của đất khác nhau:

Rừng ngập mặn, vừa úng nước, vừa nhiều mặn gồm sú, vẹt, đước v.v là những cây bám trụ trên đất còn dao động vớI biển.

Rừng ven sôngsuối:
Sông Tần một giải trong xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành dương quan

Loi thoi chứ không phải lôi thôi ! Loi thoi bờ liễu nghĩa là bờ liễu không thẳng, nhô ra, nhô vào,
Miền đồi núi đá vôi có cây ưa vôi, phát triển chậm, nhưng gỗ rát cứng như trai, nghiến.

3. Nhiệm vụ của rừng

3.1 Rừng bảo vệ đất:
Khi mưa xuống, nưóc mưa sẽ bị lá cây, tàn cây ngăn chận , nước đập vào đất sẽ nhẹ hơn, làm đất bớt tung toé; chảy xuống thân cây rễ cây thấm dần do đó, đất bớt xói mòn hơn . Nhờ rừng nên đất có thảm cỏ lá mục, cải tạo môi trường đất, có tác dụng nâng cao độ phì nhiêu của đất.

3.2 Rừng với khí quyển:
rừng chở vào không khí nhiều oxy hơn; do quang hợp, rừng hút đi chất CO2 độc hại và nhả ra oxy làm không khí dễ thở hơn, con người vào rừng khoẻ khoắn hơn. Đó là lí do các công viên có cây xanh rất cần trong thành phố. Các khí phát thải từ các xe hơi, các nhà máy như khí Co2 bị lớp mây cao che khuất lại, không thoát ra khỏi tầng khí quyển nên làm khí hậu trên địa cầu nóng dần. Ngoài CO2, các khí như metan, nitơ oxit, khí CFC (clorofluorocacbon) cũng là các khí hiệu ứng nhà kiếng (gas à effet de serre). Khi nhiệt độ Trái đất nóng thì các tảng đá băng ở hai cực Địa cầu sẽ tan đi, làm cho mực nước biển dâng cao Các nước họp ở Kyoto năm 1997 quyết định làm giảm lượng khí nhà kiếng. Nghị định thư Kyoto muốn giảm các khí nhà kiếng đó . Một giải pháp là trồng lại rừng để hút bớt chất CO2 trong khí quyển, làm giảm bớt Co2.

3.3 Rừng với nước:
Rừng bảo vệ nguồn nước, hạn chế thiên tai. Chính vì phá rừng trên thượng lưu sông Mekong mà ngày nay, năm nào cũng lụt chết người miền Lục Tỉnh. Ẩm độ trong đất (soil moisture) rừng cao hơn đất trống vì nước được giữ lại; nhiệt độ đất (soil temperature)trên đất rừng thấp hơn đất trống trải. Khi chế độ nước khô hạn, khi nhiệt độ đất cao thì đó là các điều kiện để sa mạc hoá.

3.4 Rừng chống nạn cát bay/ chắn sóng ven biển:
Nhiều nơi như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên có nạn cát bay làm cát chiếm các đồng ruộng, đường sá: mùa mưa, cát trôi thành suối cát; mùa hè, gió Lào khô nóng thổi mạnh xen kẽ với gió mùa Đông Nam; mùa đông, gặp gió mùa Đông Bắc thêm với gió bão từ biển Đông thổi đến. Trồng rừng phi lao hay dứa dại giúp ổn định các đồi cát.

4. Công dụng của rừng

Sự phá rừng trên các triền núi HiMalaya đã dẫn đưa đến nạn lụt lội ở Bangladesh, chết hàng chục ngàn người mỗi năm. Sự phá rừng trên thượng nguồn Cửu Long, trên thượng nguồn các sông ngòi miền Trung cũng gây chết chóc, lụt lội năm này qua năm khác. Sự phá rừng tại Madagascar làm tài nguyên đất hư hại nghiêm trọng. Nền văn minh Maya ở Trung Mỹ bị tiêu diệt vì tài nguyên đất không còn do phá rừng. Còn Việt Nam thì nào là lâm tặc với nguời chặt cây bừa bãi; sa tặc với thuyền bè đào xới cát dưới lòng sông khiến bờ sông lở lói; thạch tặc với đào kiếm đá qúy, tìm vàng trong rừng sâu làm cảnh quan với hố ngang, dọc, cạn, sâu, lồi, lõm như trên mặt trăng, và chất thủy ngân rất độc dùng đãi vàng bị nhiễm vào suối.  

4.1 Rừng cung cấp gổ củi: gổ làm bàn ghế giường tủ; củi nấu ăn, nung trong lò gạch, làm than.


4.2 Rừng cung cấp các sản phẩm ngoài gỗ củi.
Đó là nấm, mật ong, măng tre, mây, hoa lan, dược thảo, trầm.
Nấm trong rừng nhiều loại: nấm mèo đen, nấm mèo trắng, bào ngư, linh chi, hầu thủ . Nấm mèo (Auricularia polytricha), còn có tên là mộc nhĩ là nấm sống tren gỗ mục. Vùng núi có nấm hương (Agaricus rhinozerotis) có mùi thơm, ăn ngon.. Khắp núi rừng Dalat, có những loại nấm mèo trắng, bào ngư và đông cô.

Trong rừng có tre .Tre nhiều loại nào là tre lồ ô (Bambusa procera), tre la ngà (Bambusa multiplex), tre gai (Bambusa stenostachya), tre nhà (Bambusa vulgaris). Ngoài tre, rừng có nứa (Neohouzeaua), sặt (Arundinaria), luồng (Dendrocalamus), trúc (Phyllostachys) và các loài tre này dùng trong nhiều việc: dụng cụ trong nhà (làm đủa, đan thúng, tăm, giường ), dụng cụ bắt cá (lờ, rọ, cần câu ..), bẫy chuột, làm vách phên nhà, làm dụng cụ săn bắn (cung, tên), làm dụng cụ âm nhạc (sáo), làm giấy.
Trong rừng có nhiều cây lan mọc, đủ loại mà sau đây chỉ kể ít lan thông dụng ở Viet Nam:lan hồ điệp (còn gọi là lan cành giao), lan da báo, lan đuôi cáo, lan dáng hương, lan hạc đính, lan hoàng thảo vảy rồng, lan tai trâu và đặc biệt có nhóm lan hài (Paphiopedilum) có hoa có màu sắc đa dạng có hình thù giống như mũi giày nên gọi là lan hài thường mọc các vùng núi đá vôi .Người nuớc ngoài thưòng chỉ mua ồ ạt các lại lan này để có thể lai tạo giống khác và đẹp. Nhưng sau đó thì tự nhiên họ ngưng nhập trong khi đó thì rừng Viet Nam đã cạn kiệt phong lan loại này.

4.3 Rừng cung cấp thuốc trị bệnh.
Xưa kia, con người nhờ các loại cây cỏ trong rừng để chữa bệnh vì cây cỏ có chất làm lành vết thương, giải nhiệt, giải độc, mụn nhọt, trị cảm cúm, trị ho... Ngày nay, dù khoa học có tiến bộ nhưng rừng vẫn là nơi các thực vật cung cấp nguyên liệu để khảo cứu, trích các tinh dầu.

Nạn sốt rét gây tàn phá làm chết rất nhiều sinh mạng. Cây quinquina (Cinchona sp) cho chất quinine và các thuốc trị sốt rét như chloroquine, quinacrine, primaquine đều từ quinine mà ra. Chất này không phải chỉ trị sốt rét mà còn dùng chữa nhều bệnh khác nữa.

Trong rừng Mexique có một loại khoai vừng (Dioscorea sp) cho chất diosgénine dùng để chế cortisone và hydrocortisone dùng để trị bá bệnh (sưng đau nhức, phong thấp...) Cây Catharanthus roseus từ Madagascar cho đến 75 alcaloid khác nhau và một số dùng trị ung thư. Trong quãng 3000 cây chứa các đặc tính chống ung thư thì có đến hơn 2000 cây từ rừng nhiệt đới.

4.4 Rừng cho nhiều loại trái cây ăn được.
Nhiều loài cây trong rừng có trái ăn được: sim, mồng quân, dâu rừng, giẻ ..
Đói lòng ăn mớ trái sim
Nhịn ăn khát nước đi tìm người thương


4.5 Rừng là lá phổi của hành tinh ta ở.
Khi trái đất còn hỗn mang, trái đất không có cây cối . Dần dà, trái đất có cây xanh lá chứa chất diệp lục; chất này có đặc tính hấp thụ đuợc một phần năng lượng mạt trời qua hiện tượng quang hợp. Trước kia, trái đất cũng không có oxy và cung chính nhờ hiện tượng quang hợp này, mà có oxy: trong sự quang hợp, cây hút CO2 và nhả ra oxy. Chính nhờ rừng hút bớt đưọc chất CO2 do khói nhà máy, khói xe cộ nên rừng xem như nơi chứa cacbon.

5. Đa dạng sinh học và bảo vệ đa dạng sinh học

Rừng nhiệt đới chứa một kho tàng và một sản xuất sinh học vô cùng lớn. Rừng cung cấp thức ăn, thuốc uống, tre, nứa, mây, hoa, nấm, phong lan, trầm hương, thú hoang, mật ong, gia vị, chất hương thơm, vỏ cây .. Sau khi chế biến, rừng cho ta bột giấy, dầu, nhựa, verni, thuốc sát trùng, thuốc trị bệnh, mủ cây ..Rừng cho ta các cây trang trí nội thất: dâm bụt, hoa lan, quỳnh (‘quỳnh thơm hay môi em thơm’), mai, trúc...

Rừng là nguồn gen: Vì rừng chứa nhiều loại thực vật khác nhau nên đó là một kho gen vĩ đại; muốn tháp gen thì phải có gen nào cần như có cây có gen kháng mặn, kháng bệnh thì đưa gen đó vào loài cây muốn cải thiện. Như vậy rừng là vàng xanh vì rừng chứa một kho gen vĩ đại mà khoa học tháp gen sẽ phải mãi mãi cần như một nguồn dự trữ . Nhờ đa dạng sinh học nên ngày nay, thực vật lương thực con người mới phong phú; riêng ở Việt Nam, vì là nơi tiếp giáp giữa các hệ thực vật Mã lai-Nam đảo phía Nam và hệ Hi Mã phía Bắc mà thực vật trong rừng có kế thừa cả hai loại: sàu riêng, chôm chôm là cây đặc thù phía trong Nam, vãi, đào, mận, cây giẻ (noyer) , cây sồi (chêne) phía Bắc.

Nhiều loài cây rất thân thương quen thuộc nhưng thật ra, trước kia không có ở Viet Nam vì có nguồn gốc từ các xứ khác: cây khế, cây xoài, cây vú sữa, cây cao su, cà phê , cây xapochê v.v xuất xứ từ Nam Mỳ, từ Ấn Độ, từ khu vực Mã lai.

Còn hiện nay, hầu như sim cũng không mọc được nữa trên đất qúa ư cằn cỗi.

Phá rừng: phá rừng bừa bãi, đốn cả cây lớn lẫn cây bé; mới trồng rừng lại được thì dân lại tự động phá trồng cà phê, trồng điều.

Cháy rừng: nạn cháy rừng mỗi năm làm thiệt hại rất nhiều rừng và thảo nguyên: chỉ cần một đóm lửa, gặp thảm cỏ khô mùa hạ nóng bức, thêm gió, cả 3 cái đó đã là một cocktail Molotov để hủy hoại rừng.

Nưong rẫy: Người miền núi vẫn sống theo lối đốt rừng làm nương rẫy trồng trọt vài năm sau đó khi đất mất đi sự phì nhiêu lại sang một cánh rừng khác đốt rừng tiếp tục làm nương rẫy .Vì vậy, rừng càng ngày càng thoái hoá, cả vè diện tích lẫn số lượng các loài.


Phá rừng làm giảm đa dạng sinh học và hư cảnh quan, làm muông thú không nơi sinh sống. Côn trùng sẽ tự do nẩy nở vì chim ăn côn trùng nay không còn rừng làm nơi trú ẩn. Không rắn thì chuột nhiều và chuột lại phá hại mùa màng...

6. Rừng và tâm linh

Từ ngàn xưa, con người khi mới được con Tạo sinh ra cách đây non một triệu năm, đã nhờ rừng mà tồn tại. Con người cổ sơ phải săn bắn trong rừng hoang, phải tìm cây rừng để chữa bệnh. Tóm lại nhờ rừng, do đó con người tôn thờ cây như một cái gì linh thiêng, chứa đựng những linh hồn. Các tôn giáo lớn luôn luôn nhắc nhở đến cây: cây bồ đề trong Phật giáo, rừng trúc mà Phật Thích Ca truyền đạo; cây cedre trong lá cờ Liban...

- tăng cường giáo dục về môi sinh, kể cả giáo dục nâng cao dân trí để chương trình kế hoạch hoá sinh đẻ thực hiện hiệu qủa hơn.

- tái chế biến và tận dụng các phế phẩm: thay vì đốn thêm rừng làm bột giấy, thì cần thu luợm giấy báo, sách củ, giấy bìa... và tái chế biến ra giấy mới.


Vì nhiều lý do như nghèo đói, nạn đất đai nghèo nàn vì sử dụng không hợo lý (làm rẩy , canh tác trên đất dốc), áp lực dân số nên nhiều nơi như Cao Bằng, Sơn La, Thanh Nghệ có phong trào di dân tự do lên Cao Nguyên Trung Phần, gây thêm xáo trộn xã hội vì lý do tranh chấp đất đai . Ta gọi đó là di dân môi trường .Có thể tượng trưng các tương quan phụ thuộc của các yếu tố ảnh hưởng trên bằng sơ đồ sau đây:

Giản đồ cho thấy các tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến suy thoái môi trường, tác động tiếp tục trên nguy cơ di cư môi trường

7. Kết luận
 
Tóm lại rừng cung cấp nguyên liệu cho kỹ nghệ (cưa xẻ, giấy, đồ mộc), tạo công ăn việc làm, tạo môi trường sinh thái cho du lịch, bảo vệ lụt lội chống xói mòn làm cho mặt đất xanh nên thơ hơn, đẹp hơn khiến con người nhiều sức khỏe hơn...

Con người đã có một món nợ rất lớn với Thiên Nhiên. Vì ta mắc nợ. nên ta phải trả nợ. Trả nợ bằng cách bảo vệ Thiên Nhiên, làm giàu Thiên Nhiên, bàng cách chỉ sử dụng phần lời của Thiên Nhiên mà không đụng chạm đến phần vốn, như chỉ lấy ra khỏi rừng phần tăng truởng gỗ mỗi năm mà thôi.

Nếu ta không trả nợ thì Thiên Nhiên sẽ trả đủa bằng nhiều cách; trả đủa âm thầm như làm đất đai nghèo mòn dần dà để nạn đói sẽ xẩy ra hoặc trả đủa ào ạt như vũ bảo với cuồng phong, bão tố, làm ruộng vườn chìm sâu dưới nưóc,trâu bò người trôi ra biển, tạo thêm cửa biển mới làm nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất liền.

Gần đây, ta chứng kiến nhiều loại khủng bố: hải tặc, không tặc. Trận không tặc ở New York gây chấn động thế giới chết gần 6 000 người trong khoảnh khắc. Nhưng còn một trận khủng bố dai dẳng hơn, ít gây ấn tượng hơn đó là khủng bố thiên nhiên, diệt chủng Thiên Nhiên (holocauste de l’ environnement) còn nguy hiểm hơn các khủng bố vừa nêu . Sinh quyển là hàng rào phòng thủ cuối cùng của con người ; mất phòng thủ cuối cùng thì không còn hàng rào nào khác. Thế mà ta lại phá hủy nó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét