Thứ Năm, 28 tháng 8, 2008

Mekong Trên Đường Suy Thoái

Phạm Phan Long P.E
Mekong – Dòng Sông Quốc Tế

Sông Mekong là dòng sông quốc tế dài 4800 km phát nguồn từ vùng Thanh Hải, Tây Tạng, chảy qua Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam ra Biển Đông. Lưu vực sông Mekong rộng 795,000 km2 và lưu lượng ra biển trung bình 15,000 m3/giây, 775 tỉ m3/năm -thứ tám trên thế giới. Nước Mekong chảy về hạ nguồn từ 2,000 m3/giây vào mùa hạn và tăng lên 50,000 m3/giây vào mùa lũ hay tăng lên 25 lần; chảy về Tonle Sap tăng 50 lần.

Sông Mekong là nguồn sống cưu mang 70 triệu cư dân trong đó có đến 70 sắc tộc. Mekong mang nhiều tên khác nhau tùy dân cư từng vùng sông: Trên thượng nguồn, người Tây Tạng gọi Mekong là Dzu Chu (River of Rocks), Trung Quốc gọi là Lancang Jiang (sông Cuồng Nộ), người Thái gọi là Mae Nam Khong (sông Mẹ) và người Việt gọi là sông Cửu Long.

Langcang-Mekong chảy siết xuống từ 5,000 m độ cao, len vào những khe núi đá, đổ xuống biên giới Trung Quốc, mất 4,500 m độ cao; khi vào biên giới Lào Trung chỉ còn cao độ 500 m, chảy xuống những nước hạ nguồn, đến đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) rồi ra biển.

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2006

MÙA XUÂN VÀ CÂU CHUYỆN CỦA DÒNG SÔNG

NGÔ THẾ VINH

Mọi người đều sống dưới nguồn
Everybody Lives Downstream
World Water Day 03-22-1999



DẪN NHẬP. Khi mà Trung Quốc đã và còn đang tiếp tục xây những con đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính sông Mekong, tiếp đến Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong ngay cả trong mùa khô, cộng thêm nạn phá rừng rồi phá đá để mở rộng một thủy lộ cho tàu trọng tải 700 tấn chở đầy hàng hóa của Trung Quốc từ giang cảng Tư Mao xuống tới Vạn Tượng... Cho dù chưa có dự án nào tới giai đoạn kết thúc, nhưng nơi các quốc gia hạ nguồn và nhất là Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bắt đầu chịu những hậu quả "nhãn tiền": như những cơn lũ bất thường trong mùa mưa, nạn thiếu nước ngọt và nhiễm mặn trầm trọng hơn trong mùa khô, tôm cá sút giảm tới mức báo động về số lượng cũng như số chủng loại. Ngót 18 triệu cư dân vùng ĐBSCL đang và sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn? Đó là nội dung bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng. Trong những năm qua, ông cùng với Nhóm Bạn Cửu Long đã có nhiều bài viết báo động về một ĐBSCL và con sông Mekong trước nguy cơ. Ông cũng đã thực hiện những chuyến đi khảo sát các khúc sông thượng nguồn và đã có bài viết tường trình trực tiếp từ con đập Mạn Loan - là con đập thủy điện lớn đầu tiên trong dự án 14 con đập Trung Quốc chắn ngang sông Lan Thương. Ông hiện là bác sĩ điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện ở Nam California.

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2005

Mekong Dòng Sông Tranh Chấp

Phạm Phan Long P.E

Hiện tình tranh chấp và viễn ảnh hạ nguồn

Sông Mekong mang nguồn sống cho 60 chục triệu dân nghèo nay đang biến thành nguồn tai họa giáng xuống họ, mực nước Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bỗng rút thấp hơn vào cuối mùa khô rồi lại dâng cao hơn vào đỉnh mùa lũ, bất thường và liên tục suốt trong thập niên 90 đến nay. Hàng năm, Mekong gây thiệt mạng hàng trăm người Việt và Cam Bốt phần lớn là trẻ em. Hiện tượng lũ lụt gia tăng này không hẳn do biến đổi khí hậu (gobal warming) hay dao động nhiệt độ El Nĩno (ENSO: El Nĩno Southern Oscillation). Nếu dựa vào dữ kiện thời tiết của Cơ Quan Khí Tượng Hoa Kỳ [NOAA] về vũ lượng trên vùng Đông Nam Á vào mùa mưa năm 2000 ta sẽ không thể kết luận hiện tượng lũ lụt nặng nề xuống Mekong năm ấy là do El Nino gây ra: Tuy có nhiều nơi mưa bất thường thật nhưng mưa không nằm trên lưu vực sông Mekong. Lụt năm 2000 có lẽ là hậu quả của nhiều nguyên nhân, mà có lẽ nguyên nhân chính là do con người: Từ việc phá rừng lấy gỗ bất hợp pháp ở thượng nguồn, việc chận ngang sông xây đập giữ nước rồi lại xả nước từ các hồ chứa. Theo KS Nguyễn Minh Quang thì chính các công trình thủy nông, việc nâng cao kênh đào, các đê ngăn mặn và các tuyến đường trong ĐBSCL do con người làm ra đã khiến lũ dâng cao hơn, nhanh hơn vì không thể tự nhiên chảy thoát ra biển [1]. [Hình 1]

Lâm Ấp, Champa và di sản

Nguyễn Đức Hiệp

Trong chuyến về lại Việt Nam vào đầu năm 2004, tôi có dịp viếng thăm miền trung Việt Nam chủ yếu là ở ba thành phố chính: Huế, Đà Nẵng và Hội An. Huế thơ mộng đượm nét Việt Nam, Hội An cổ kính với nhiều ảnh hưởng của văn hoá Hoa kiều (Minh Hương), và Đà Nẵng thì lại mới mẻ và năng động. Có lẽ đa số khách du lịch sẽ chọn Huế hay Hội An là địa điểm đáng thăm nhất qua bề dầy lịch sử và nét cổ kính của hai thành phố này. Nhưng chính Đà nẵng là nơi tôi chú ý hơn vì ở đấy có Viện bảo tàng văn hoá Chăm chứa đựng nhiều bảo vật quý giá của nền văn minh cổ Champa.

Trong lứa tuổi tuổi học trò ở trung học, tôi rất thích môn học lịch sử và tò mò về vương quốc Chăm. Sự tò mò pha lẫn lãng mạng và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên. Gần đây, tôi có dịp đọc tập thơ “Tháp Nắng” và các bài nghiên cứu có giá trị về văn hoá Chăm của Inrasara (Phú Trạm), một người Việt gốc Chăm. Cuộc hành trình trỡ về nguồn gốc Chăm của Inrasara được kể lại rất chân tình và cảm động, làm tôi ray rức và càng muốn học hỏi thêm về một bộ phận dân tộc và văn hoá ít được quan tâm đến ở Việt Nam. Tôi đến thăm Viện bảo tàng Đà Nẵng với mục đích tìm hiểu về quá trình phát triển mỹ thuật Chăm qua các phong cách khác nhau của các tháp Chăm.

Khí hậu và hiện tượng El Nino

Nguyễn Đức Hiệp

Đầu tháng 8 năm 2004, cơ quan khí tượng Úc dự đoán là hiện tượng El Nino sẽ trở lại khoảng cuối năm nay và nhiều nơi ở Úc, Indonesia sẽ bị khô hơn bình thường, nguy cơ hạn hán có thể xảy ra. Ảnh hưởng của hiện tượng El Nino không chỉ giới hạn ở trong vùng Indonesia, Úc châu mà còn khắp nhiều nơi trên thế giới. Vì tầm quan trọng của hiện tượng này trên khí hậu trái đất, nhiều nước trên thế giới đã và đang đầu tư tài chánh và nhân lực rất nhiều để nghiên cứu, tìm hiểu nguyên do, hậu quả của El Nino và tiên đoán sự hình thành của hiện tượng này.

Hiện tượng El Nino, còn được gọi là Dao động phương Nam (Southern Oscillation) trong khí tượng học, xuất hiện từ khi có sự thành hình của các lục địa châu Á, châu Mỹ và biển Thái Bình Dương. Vì thế nó đã có từ lâu rồi. Tuy vậy hiện tượng El Nino chỉ được biết rõ và nghiên cứu bắt đầu từ cuối thập niên 1960. Người thổ dân Inca ở Nam Mỹ trong các thế kỷ trước đã áp dụng kiến thức về hiện tượng này và thích ứng vào sinh hoạt canh nông. Khi chòm sao Pleiades trong đêm vào tháng sáu trông rất rõ (kể cả các sao không sáng) thì vài tháng sau từ lúc ấy sẽ có nhiều mưa. Ngược lại khi chúng bị mờ, hạn hán thường xảy ra sau đó. Ngày nay ta biết rằng trong lúc có hiện tượng El Nino, mây rất cao loại cirrus thường có trên dãy núi Andes, do các mưa bảo từ xa ở phía đông Thái bình dương mang đến. Chính những mây này làm mờ đi chòm sao Pleiades.