Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

A NEW DAWN ON THE IRRAWADDY: From the Myitsone Dam to the Series of Dams on the Mekong

NGÔ THẾ VINH
To the Friends of the Mekong
and VN 2020 Mekong Group

“The destruction of the ecology, regardless of time and space,
is another form of violence and violation of human rights”


A Glimpse of Myanmar

Myanmar has been known as “Shwe Pyidaw” – the “El Dorado” of Asia, a land richly endowed with natural resources such as valuable wood, precious stones, oil, and the Irrawaddy Basin, Asia’s most fertile land. This Basin, considered the “rice bowl” of this nation covers an area of 255,000 km2. Furthermore, the Burmese can also find a vast, bountiful fishing ground in the Andaman Gulf. Unfortunately, such a beautiful country graced with thousands of glistening golden pagodas is also a land of poverty where three quarter (3/4) of the population still suffers from illiteracy and food shortage. The situation is worse than when this nation lived under British rule. Its population of 54 million resides in an area of 676,552km2 - twice the size of Vietnam or larger than France and Great Britain combined. To the west and northwest, Myanmar shares common borders with India and Bangladesh, to the north and north east it abuts China and Laos while to the south and southeast it neighbors Thailand. Two main rivers flow through the land along a north-south axis and form valleys and plains covered with a thick layer of alluvium. The Irrawaddy, the longest of the two, originates from the Tibetan High Plateau and meanders through the hills and mountains of the Kachin region in northeastern Myanmar. It then continues southward on a 2,000 mile long journey before discharging into the Indian Ocean through various estuaries.

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

NGÀY MỚI TRÊN SÔNG IRRAWADDY Từ Con Đập Myitsone Tới Chuỗi Đập Sông Mekong

NGÔ THẾ VINH

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
và VN 2020 Mekong Group
Hủy hoại môi trường sống, cho dù ở đâu và bao giờ, là
một hình thái khác của bạo động và vi phạm nhân quyền 

Một Thoáng Miến Điện

Miến Điện từng được biết tới như một vùng Đất Vàng – Shwe Pyidaw, một đất nước rất giàu có về tài nguyên thiên nhiên với gỗ quý, đá kim quý, dầu khí, đất đai phì nhiêu nhất Á Châu như vùng châu thổ Irrawaddy diện tích 255,000 km2 là cả một vựa lúa trù phú và thêm một vựa cá khổng lồ ngoài khơi vịnh Andaman. Một đất nước đẹp đẽ như vậy với cả ngàn ngôi chùa vàng lấp lánh nhưng lại là một đất nước của nghèo khổ với ba phần tư dân chúng thất học và thiếu ăn, còn tệ hơn dưới thời thực dân Anh. Với dân số gần 54 triệu, diện tích 676 552km2 gấp đôi Việt Nam, bằng diện tích nước Pháp và Anh cộng lại. Tây và tây bắc giáp với Ấn Độ và Bangladesh, bắc và đông bắc giáp với Trung Quốc và Lào, đông và đông nam giáp với Thái Lan. Có hai con sông chính chảy từ bắc xuống nam tạo nên những thung lũng và đồng bằng đẫm phù sa. Con sông Irrawaddy dài nhất xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng băng qua vùng đồi núi Kachin phía đông bắc Miến rồi chảy dài suốt 2000 km về hướng nam với chặng cuối chia ra làm nhiều nhánh trước khi đổ ra biển khơi Ấn Độ Dương.

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

FROM THE MULTI-PURPOSE SEA DYKE TO THE FRESH WATER RESERVOIRS IN THE MEKONG DELTA

NGÔ THẾ VINH

“Water has become expensive, and it will be even more expensive in the future, which will make it the ‘blue gold’ of the 21st century”. Ricardo Petrella, 3/2000

“For every claim to virtue made by the proponents of big dams, there is a clear-cut, factual and demonstrable refutation”. Elmer Peterson, Big Dam Foolishness, 1954

“In my view, nature is awful and what you do is cure it”. Camille Dagenais, Canadian dam engineering firm SNC, 1985
To The Friends of The Mekong
and VN2020 Mekong Group 

FOREWORD: This is the last of a three-article series entitled “Mekong - A Look into the Next Half Century” dealing with the future of the Mekong Delta.

The first article sketched a general overview of the issue and offered these observations: hydroelectricity still remains the least costly source of power to meet the needs of economic development. Consequently, the exploitation of hydro-power on the Mekong is an irreversible process that will move ahead regardless of oppositions that may be raised along the way. What is needed now is a macroscopic plan to neutralize the cumulative impacts caused by climate change and the hydroelectric dams built upstream.

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2011

TỪ CON ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG NGĂN MẶN TỚI CÁC HỒ CHỨA NƯỚC NGỌT ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

NGÔ THẾ VINH

“Nước trở nên quý, và càng quý hơn trong tương lai, trở thành ‘vàng xanh’ của Thế kỷ 21” “Water has become expensive, and it will be even more expensive in the future, which will make it the ‘blue gold’ of the 21st century”. Ricardo Petrella, 3/2000 
 
“Mọi tuyên bố về các dự án đập thủy điện lớn, thì rõ ràng, hiển nhiên và chứng minh được là giả định và sai trái”. “For every claim to virtue made by the proponents of big dams, there is a clear-cut, factual and demonstrable refutation”. Elmer Peterson, Big Dam Fooliness, 1954

“Theo tôi, thiên nhiên thì vô cùng khắc nghiệt, và điều chúng ta có thể làm là trị liệu chúng”. “In my view, nature is awful and what you do is cure it”. Camille Dagenais, Canadian dam engineering firm SNC, 1985
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
& VN2020 Mekong Group

 
LỜI DẪN NHẬP: Đây là bài thứ ba trong số 3 bài viết về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long “Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”:

Bài thứ nhất, như một tổng quan, với nhận định: thủy điện vẫn là nguồn năng lượng rẻ nhất, do nhu cầu phát triển, khai thác thủy điện trên sông Mekong, cho dù mau hay chậm, thì đó vẫn là một tiến trình rất khó có thể đảo nghịch, nên cần có một kế hoạch vĩ mô đối đầu với hậu quả tích lũy của những con đập thượng nguồn cùng với biến đổi khí hậu.

Bài thứ hai, giới thiệu về một phác thảo “Dự án Đê Biển Đa Dụng / Mekong Multipurpose Sea Dyke / MSD” như một bước đột phá , trước mắt là ngăn không cho nước biển lấn sâu thêm vào vùng châu thổ và lâu dài là cứu Đồng Bằng Sông Cửu Long [ĐBSCL] không chìm dưới biển mặn khi biển dâng cao một mét do hâm nóng toàn cầu/ global warming, cùng với những lợi ích khác như tạo thêm vùng đất mới, cải thiện giao thông, nâng cao mức sống cư dân vùng châu thổ. (3)

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

A SUMMARY THE MULTI-PURPOSE SEA DYKE - THE MEKONG DELTA A POSSE AD ESSE – FROM POSSIBILITY TO REALIZATION

NGÔ THẾ VINH

FOREWORD: This is the second of three articles entitled “A Look Forward into the Next Half Century” discussing the prospects confronting the Mekong Delta. The first article offers an overview of the situation with this main conclusion: the governments of the countries bordering the Mekong are still convinced that hydropower remains the least expensive source of energy to sustain their nations’ pace of economic development. Sooner or later, the exploitation of the hydropower potentials of the Mekong will prove to be an irreversible process that will forge ahead over the last half of this century regardless of the impacts that may be brought to bear on the eco-system of the Mekong, particularly of the Mekong Delta in Vietnam. 

The readers should be reminded of this historical fact: it is the Vietnamese Minister of Foreign Affairs, Mr. Nguyen Manh Cam, who signed the Agreement to establish the Mekong River Commission in 1995. This Agreement contains a fundamental change that robs the member countries of their power to “veto” any projects they deem detrimental to the river or to the neighboring states. More than once, the author has expressed his reservations on this issue and emphasized that Vietnam has committed a strategic mistake when it agreed to this change because this country lies at the southern end of the river.

Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011

MEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI [2] PHÁC THẢO DỰ ÁNĐÊ BIỂN ĐA DỤNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG A POSSE AD ESSE / TỪ KHẢ NĂNG TỚI HIỆN THỰC

NGÔ THẾ VINH

LỜI MỞ ĐẦU_ Đây là bài viết thứ hai, trong số 3 bài viết về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long “Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”. Bài thứ nhất, như một tổng quan, với nhận định: thủy điện vẫn là nguồn năng lượng rẻ nhất, do nhu cầu phát triển, những bước khai thác thủy điện trên sông Mekong, cho dù mau hay chậm, trước hoặc sau, thì đó vẫn là một tiến trình không thể đảo nghịch trong vòng nửa thế kỷ tới. 

Do áp lực mạnh mẽ của các quốc gia thuộc Lưu Vực Dưới sông Mekong, kể cả cộng đồng quốc tế, cho dùLào đã đã có quyết định tạm ngưng khởi công xây con đập thủy điện Xayaburi 1,260 MW, là con đập thủy điện dòng chính đầu tiên trong dự án 9 con đập của Lào;một dấu mốc được International Rivers Network / IRN và các nhà hoạt động môi sinh coi như một “thắng lợi”, nhưng cũng để thấy rằng đây chỉ là bước trì hoãn tạm thời.

Nếu so với hai con đập thượng nguồn Tiểu Loan /Xiaowan 4,500 MWvà Nọa Trác Độ/ Nuozhadu 5,850 MW của Trung Quốc, mỗi con đập có công xuất trên dưới lớn hơn 5 lần con đập Xayaburi, và riêng đập Tiểu Loan có hồ chứa lớn hơn cả tổng dung tích 11 con đập hạ lưu cộng lại, nhưng Bắc Kinh thì vẫn cứ ngang nhiên triển khai kế hoạch khai thác thủy điện sông Mekong của họ cho do dù có phản ứng chống đối của dư luận quốc tế. Sự khác biệt rất rõ ràng: Trung Quốc là một nước lớn với lý lẽ của kẻ mạnh và đầy tham vọng vươn lên như một siêu cường, Lào chỉ là một quốc gia nhược tiểu nghèo nàn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để có thể thực hiện được các dự án đập của mình.

ĐÊ BIỂN CHỐNG MẶN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Phạm Phan Long P.E
Ngô Minh Triết S.E

LỜI MỞ ĐẦU:
Công trình xây dựng đê biển chống mặn dọc duyên hải Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có tác dụng trực tiếp đến hơn 20 triệu cư dân ĐBSCL và ảnh hưởng đáng kể đến toàn dân Việt nam.
Một công trình có tầm vóc quốc gia như vậy đòi hỏi nổ lực của cả dân tộc, dựa vào nghiên cứu của những bộ óc ưu việt, những kiến thức kỹ thuật tân tiến, và quyết tâm chính trị đúng mức của nhà nước.

Ý thức rằng khả năng và phương tiện giới hạn, bài viết của chúng tôi chỉ nhầm mục đích là gợi ý, đưa ra một ý kiến về phương pháp chống lại sự xâm nhập của nước biển. Chúng tôi hy vọng tiếp theo sẽ có những nghiên cứu khoa học đứng đắn, với phương tiện kỹ thuật, do những chuyên viên cố vấn trong và ngoài nước đảm trách, tìm cách đối phó với vấn đề ngập mặn, bảo vệ ĐBSCL trong kế hoạch phát triển bền vững cho toàn lưu vực. Nhiên cứu này phải dựa vào những cái nhìn tổng thể về môi trường, quy hoạch kinh tế và hệ thống sinh thái của cả ĐBSCL.