Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

Global Ecology And the “Made in China” Dams

NGÔ THẾ VINH

To the Friends of the Mekong Group

Water has become expensive, and it will be even more expensive in the future, which will make it the ‘Blue Gold’ of the 21st century”.
Ricardo Petrella, 3/2000_ The New “Conquest of Water”

HALF A BILLION PEOPLE ON THIS PLANET

A decade ago, the World Commission on Dams (WCD) published a research on the impacts of big dams on human development for worldwide distribution.

This year (2010), Water Alternatives, an independent academic on-line journal staffed with researchers and editors, has conducted an evaluation of the works done by WCD. Its aim is to determine the extents of the impacts the big dams have exerted on the ecology, socio-economic milieu, and living conditions of the inhabitants along the banks of the rivers in question.
The scope of this study is not limited to the people who resided in the vicinity of the dams and became victims of forced relocation. It also covers the communities that dwelled downstream the 120 rivers that flow through 70 countries of the world.

According to Brian Richner, Director of the Nature Conservancy Program and leader of the study group, there are approximately half a billion souls (472 million) - 85% of them in Asia - who live downstream those rivers. These unfortunate people will have to bear the brunt of the dreadful effects brought about by those mammoth dams - be it degradation of the ecology, deforestation, depletion of fish source and reduction of grazing grounds for cattle raising… A case in point: if we remove the urban population from the picture, the remaining more than 40 million people - mostly farmers and fishermen - still have to depend on the life-giving water of the Mekong to till their rice fields or catch the fish which represent their main source of protein.

Thực trạng bi đát của Lưu Vực sông Mekong Phải cứu sông Cửu Long bằng Sáng kiến Lancang-Mekong

Phạm Phan Long P.E

Tháng 1, năm 2011

Dẫn nhập: Từ năm 1995 khi thành lập, tổ chức Mekong River Commission đã không tạo dựng phát triển bền vữngcho lưu vực mà lại dẫn các nuớc Mekong lâm vào tình cảnh bế tắc tại hạ lưu. Trong 15 năm qua lưu vực suy thoái nhanh chóng và an tòan thực phẩm và nguồn nước của dân cư bị đe dọa liên tục vì thiên tai lẫn nhân tai. Bốn nước Mekong sẽ không bao giờ có thể có phát triển bền vững khi các biến đổi lớn nhất lại nằm ở thượng lưu mà MRC không biết rõ và không theo dõi. Lancang-Mekong là dòng sông quốc tế, cả sáu nước cần phải hợp tác trong một chương trình toàn lưu vực—Lancang-Mekong Intitiative—ngay trong năm nay để đạt một hiệp ước “Lancang-Mekong Treaty” thì mới kịp thời cứu vãn an tòan thực phẩm, bảo vệ nguồn nước, phát triển lưu vực và tránh gây thiệt hại cho dân cư các nước vùng hạ lưu. 

Hoàn cảnh bi đát

Lancang là thượng lưu (Upper Mekong Basin - UMB) và Mekong là hạ lưu (Lower Mekong Basin - LMB), hai đọan của một dòng sông quốc tế, là cùng một hệ sinh thái mà ngư sinh vật và phù sa di chuyển không cần sổ thông hành qua các biên giới chính trị do con người làm ra, nhưng các hồ thủy điện lại ngăn cản chu trình tự nhiên này.

Thứ Bảy, 15 tháng 1, 2011

THE MEKONG AND MISSISSIPPI SISTER-RIVER PARTNERSHIP Similarities and Differences

NGÔ THẾ VINH
To the Friends of the Mekong
Much attention was given to the meeting on 7/23/2009 between the American Secretary of State Hillary Clinton and her counterparts from the four nations of the Lower Mekong region: Cambodia, Laos, Thailand and Vietnam. They met in a sideline meeting to the ASEAN conference held in Phuket, Thailand. For the first time, the U.S. and the countries of that region sat together to discuss about cooperation covering various areas.

The meeting took place in extraordinary circumstances with China showing complete disregard to the objections from the scientific communities as it pressed on with the construction of the series of hydroelectric dams over the upper Mekong. This country was also setting the stage to put into operation the Xiaowan Dam, the fourth dam which is many times larger than the existing Manwan, Jinghong and Dachaoshan dams.


In view of China’s behavior and her tendency to consider the Mekong as her personal property, the news about the upcoming partnership between the commissions of the two rivers following the meeting of the five foreign ministers from the U.S., Cambodia, Laos, Thailand and Vietnam is greeted as a positive step which can usher in a brighter era to the gloomy prospects of the Lower Mekong.

On the occasion of the “partnership” between the two rivers; Ngo The Vinh, the author who devoted his works and researches in the later years to the Mekong, has completed an analysis of the similarities and differences between those two large rivers as well as the prospects for future cooperation.

*

PRIME MINISTER HUN SEN AND THE WORST ECOLOGICAL DISASTER WHEN “THE HEART OF THE TONLE SAP” CEASES TO BEAT

NGÔ THẾ VINH

PM HUN SEN AND MEKONG DAMS
 
After the Ayeyawady-Chao Praya-Mekong Economic Cooperation Strategy (ACMECS) Summit on 11/17/2010 in Phnom Penh, Prime Minister Hun Sen again dismissed all concerns about the impacts of the hydroelectric dams located upstream the Mekong. He asserted that the cycle of floods and droughts was the result of climate change and carbon emissions that had nothing to do with the series of hydroelectric dams in China. (1)

That statement from one of the four powerful national leaders in the Lower Mekong, could not fail but astound the activists and ecological organizations that, for all those years, have shown their commitment to save the fragile and gradually degrading ecology of the Mekong. This article offers an overall view of the situation along with his analysis of Prime Minister Hun Sen‘s recent statement.

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2010

THỦ TƯỚNG HUN SEN VỚI THẢM HỌA MÔI SINH LỚN NHẤT KHI “TRÁI TIM BIỂN HỒ” NGƯNG ĐẬP

NGÔ THẾ VINH

TT HUN SEN VÀ NHỮNG CON ĐẬP MEKONG 
 
Tháng 11, 2010_ Thủ tướng Hun Sen, chỉ mới đây thôi, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, lại một lần nữa đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. (9)

Tháng 6, 2009_ Fred Pearce trong một tường trình Environment 360 Đại học Yale cho rằng xây đập chắn ngang sông Mekong là một đòn giáng nghiêm trọng / major blow đối với con sông Mekong dũng mãnh. Trung Quốc đang xây hàng loạt những con đập trên khoảng 2,800 dặm khúc sông Mekong thượng nguồn, sẽ giới hạn dòng chảy, làm mất đi chu kỳ lũ lụt hàng năm / annual flood pulse, con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ, như một trong những kỳ quan thiên nhiên của thế giới. (12)

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

THỦY ĐIỆN VÀ VẤN ĐỀ LŨ LỤT Ở VIỆT NAM

Đỗ văn Tùng

GIỚI THIỆU

Mục đích của bài này có hai phần: (1) trình bày một số khái niệm căn bản của kỹ thuật thủy điện (hydropower engineering) cho những người không ở trong ngành chuyên môn này; và (2) bàn về vấn đề lũ lụt ở Việt Nam và vai trò các hồ chứa thủy điện. Một số danh từ kỹ thuật tiếng Việt được chua thêm tiếng Anh trong ngoặc đơn để làm rõ nghĩa hơn. Trong trường hợp phải đề cập một chi tiết nặng về kỹ thuật, phần chú thích ở cuối bài sẽ giải thích rõ hơn, tuy rằng khá vắn tắc, cho những độc giả “hiếu kỳ”.

Tác giả hy vọng là phần (1) sẽ giúp người đọc có một vốn liếng tối thiểu để có thể hiểu rõ hơn khi đọc một bản tin trên báo chí có ít nhiều liên quan đến thủy điện. Ví dụ lũ lụt làm vỡ đập có phải là một chuyện tự nhiên hay là một sai sót trong thiết kế và xây dựng? Thủy điện có thể giúp chống lũ được không hay có thể làm tình hình lụt lội ở hạ lưu trở nên tồi tệ hơn?

Phần (2) sẽ bàn về một vấn đề có tính thời sự ở Việt Nam là hồ chứa thủy điện và nhiệm vụ chống lũ (flood control) hay điều tiết lũ (flood regulation), và một số biện pháp đề nghị

Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010

MEKONG DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH

Đoàn Nhã Văn

MEKONG DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH

Phỏng vấn nhà văn Ngô Thế Vinh
Đoàn Nhã Văn / ĐNV_1. Thưa anh, từ bản Việt ngữ "Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch", bây giờ là phiên bản Anh ngữ "Mekong – The Occluding River" được xuất bản để gởi tới bạn đọc khắp nơi. Chủ đích của anh là muốn nhằm vào tầng lớp độc giả cụ thể nào (chẳng hạn: giới hàn lâm, học giả chuyên nghiên cứu về các con sông trên thế giới, chính quyền hay người dân các nước Đông Nam Á, giới trẻ Việt Nam trong các trường đại học .v.v.)? 

Ngô Thế Vinh / NTV_1. Với 2000 ấn bản tiếng Việt [kể cả lần tái bản trong cùng năm 2007] và audiobook Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, các thông tin cũng chỉ gửi tới được một con số giới hạn người Việt nơi các cộng đồng hải ngoại và một số rất ít về được trong nước. Từ 2009, khi “bản điện tử cuốn sách” được post Trên Kệ Sách Da Màu, sự phổ biến tương đối được mở rộng qua mạng internet.