Thái Công Tụng
1. Nhập
đề.
Gió, đất, lửa, nước là 4 chất lớn trong vũ trụ nên gọi là Tứ Đại theo
Phật giáo. Thực vậy, từ giây phút thành lập đầu tiên của Trái đất mà các
nhà khoa học gọi tên là Big Bang:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
cho đến nay, trái đất già đến 4 tỷ năm, sinh ra trong những điều kiện
thiên nhiên rất khác với ngày nay, với các tinh vân họp lại, đụng phải
nhau, xoáy tròn tạo ra lâu dần nguội lại. Suốt một khoảng thời gian rất
dài, với nhiều đá phun trào từ lòng trái đất, với mưa rơi mưa rơi, bào
mòn, xói lở... Rồi Trái Đất bị nguội lại dần. Khi ta nóí Trái đất nguội
lại dần, như vậy có thể nghĩ ngay đến yếu tố Lửa với Mặt Trời, rồi đá
biến thành Đất, mưa rơi đại dương thành lập là Nước, không khí là Gió
họp thành Tứ Đại trong vũ trụ.
Riêng trong các câu trong bài hát Dấu chân địa đàng:
Tiếng ca bắt nguồn từ đất khô
Từ mưa gió
Từ vào trong đá khô
ta đã thấy hình ảnh của gió, nước, đất và lửa (đá).
2. Lửa, đất, nước, gió trong vũ trụ
2.1 Lửa (Hoả đại): Lửa không những có nghĩa thông thường
như lửa đốt, lửa nấu cơm mà còn có nghĩa là năng lượng mặt trời, chiếu
sáng trần gian làm sinh vật sống và sinh tồn vì nếu không có mặt trời,
Trái Đất này sẽ rất lạnh, sinh vật không tồn tại được. Trái Đất là một
hành tinh quay xung quanh mặt trời trong vòng 365 ngày nên mới có Xuân,
Hạ, Thu, Đông và tự xoay quanh chính nó nên mới có ngày và đêm. Vị trí
hành tinh Trái Đất không quá xa mặt trời như các hành tinh khác (sao Hoả,
sao Mộc v.v…) nên không quá lạnh mà cũng không gần quá mặt trời nên không
quá nóng.
Lửa cũng có nghĩa là núi lửa, với các dung nham (magma) nóng từ lòng đất
sâu phun trào và nguội lại, lâu ngày bị phong hoá thành đất. Và dưới áp
lực mạnh và nhiệt độ nóng, các đá phun trào (eruptive rocks) sẽ thành
đá biến chất (metamorphic rocks), lâu ngày các loại đá bị xói mòn do mưa,
do gió và chuyên chở xuống châu thổ đồng bằng tạo thành đá trầm tích (sedimentary
rocks).
Không những lửa có mặt dưới lòng đất mà lửa còn có mặt dưới đáy biển sâu:
nhờ các thám hiểm sâu dưới lòng đại dương, sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai, các nhà khoa học khám phá ra là giữa đáy đại dương có những giãy
núi (mid-ocean ridges) từ đó có những phun trào bazan phun ra cả hai bên
và chảy tràn, trong khi đó ven các lục địa thì lại có những máng biển
sâu thẳm. Các phun trào từ lòng biển sâu khi lên đến đáy biển bị nguội
dần lại và tràn sang hai bên để tạo chỗ cho các phun trào bazan tiếp nối
phun lên, lâu dần tạo thành các giãy núi giữa đại dương. Thuyết tách dãn
đáy đại dương spread floor ocean ra đời, cho thấy nhiều vật liệu phun
trào từ lòng đất phun lên tại vùng tách dãn.
Và mỗi ngày, mõi tháng, mỗi năm, dòng bazan từ vực sâu trong lòng trái
đất cứ trào sang hai bên miệng núi, lan dần và khi các vật liệu bazan
này di chuyển đến rìa lục địa thì sẽ bị cuốn hút trong các máng biển sâu
thẳm (fosse océanique) để lại trở về lòng đất ! Có những máng biển sâu
trong lòng đại dương như máng Mariannes ngoài khơi Phi Luật Tân, máng
Aleoutienne ngoài khơi Alaska v.v… Như vậy, vỏ trái đất giãn ra chỗ này
thì phải co rút chỗ kia, chui xuống lại các hố sâu đại dương nên cuối
cùng khối lượng trái đất vẫn giữ nguyên.
Như vậy đáy đại dương luôn luôn ở trạng thái động và di chuyển chậm chạp,
cứ chừng vài cm mỗi năm, làm các lục địa cũng phải di chuyển theo như
tấm thảm lăn (tapis roulant) ta thường đi lên xuống metro mỗi ngày.
Trên Trái Đất này, có nhiều dãy núi giữa đại dương như vậy: giãy núi chạy
dài 3.500km từ Bắc xuống Nam giữa Đại Tây Dương, giãy núi xuyên Ấn Độ
Dương, giãy núi ven bờ Thái Bình Dương. Những giãy núi giữa đại dương
đã chia bề mặt rắn chắc qủa đất thành nhiều mảng (plate, plaque) không
bằng nhau. Có chừng 12 mảng lớn: mảng Âu Á, mảng Thái Bình Dương, mảng
Phi Châu, mảng Bắc Mỹ, mảng Úc Châu, mảng Ấn Độ và mảng Nam băng dương
và những mảng nhỏ hơn như các mảng Caraibes ngoài khơi bờ biển phía Đông
các xứ Trung Mỹ, mảng Cocos ở ngoài khơi bờ biển phía Tây Trung Mỹ, mảng
Nazca ngoài khơi rặng núi Andes Nam Mỹ, mảng Juan de Fuca gần bờ biển
bắc Cali v.v…
Có mảng hầu như phía trên là đại dương (mảng Thái Bình Dương), có mảng
vừa đại dương, vừa lục địa (mảng Âu Á), có mảng chỉ có lục địa phía trên
(mảng Bắc Mỹ).
Các mảng này dày gần cả trăm km, nằm dưới vỏ trái đất.
Như vậy, các lục địa có thể ví như những chiếc bè đang trôi dạt cực kỳ
chậm chạp trên quả địa cầu. Qua các sự chuyển động này của các mảng, gây
ra bởi các chuyển động chậm chạp của magma mà tạo ra các đại dương (2
mảng rời nhau) và xuất hiện các rặng núi (2 mảng chạm nhau).
Khi 2 mảng đều cùng là mảng đại dương mà chạm nhau (ví dụ: mảng đại dương
Thái Bình Dương) đụng phải phần đại dương của mảng Âu Á, mảng Thái Bình
Dương đụng phải mảng Phi Luật Tân ) hoặc khi một mảng đại dương chạm phải
một mảng lục địa (ví dụ mảng đại dương Thái Bình Dương đụng phải mảng
lục địa của Nam Mỹ, mảng đại dương Juan de Fuca đụng phải mảng lục địa
Bắc Mỹ, mảng Caraibes đụng phải mảng Nam Mỹ) thì một trong hai mảng này,
thường là mảng đại dương sẽ chui xuống mảng kia tạo ra một vùng hút chìm
(zone de subduction)... Chính tại các vùng hút chìm mới xảy thường xuyên
các trận động đất như Cali, Nhật v.v…
Động đất thường quanh quẩn nhiều nhất ở hai vành đai sau đây:
- vành đai Thái Bình Dương kéo dài từ Nam Mỹ đến Bắc Mỹ (như Cali) vòng
qua Alaska xuống Nhật Bản, Đài Loan, Phi Luật Tân và xuống Indonesia.
- vành đai các xứ quanh bờ Địa Trung Hải đến Trung Đông (Iran, Afghanistan),
Tây Tạng.
Cái mảng bị chui xuống đó sẽ bị lớp nhu quyển của Trái Đất nuốt tiêu đi
tạo ra các phun trào bazan lên mặt đất, tạo ra núi lửa. Do đó :
- có một đai dài núi lửa tạo thành vòng cung quanh Thái Bình Dương, từ
Nam Mỹ (Chili, Pérou) đến Bắc Mỹ (núi St Helens), qua đến Nhật, Phi Luật
Tân.
- có một đai núi lửa quanh bờ Địa Trung Hải, chỗ tiếp xúc giữa mảng kiến
tạo Phi Châu với mảng Âu Á như các núi lửa Vesuve, Etna ở Ý, v.v…
Ở Việt Nam, cách nay khoảng 1 triệu năm, núi lửa phun trào đã phát triển
nhiều ở Pleiku, Darlac, Lâm Đồng, Long Khánh tạo nhiều vùng đất đỏ bazan
rất phì nhiêu.
Trên thế giới có khoảng 500 núi lửa hoạt động, tập hợp thành các đai núi
lửa, thường đi cùng với các đai động đất. Các núi lửa có thể gặp ở các
dãy núi đáy đại dương cũng như ven bờ lục địa, chỗ ép nén giữa mảng đại
dương chui xuống mảng lục địa (như tại dãy Andes ).
Các động đất mạnh ngoài bờ biển gây tai ương cho không biết bao nhiêu
sinh linh ở Sumatra cuối năm 2004, đến nỗi các rạn san hô dưới bờ biển,
các thuỷ thực vật dưới biển cũng bị tan tành. Thật đúng như thơ của cụ
Ôn Như Hầu:
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Và chu kỳ “thành, trụ, hoại, không”, cứ tiếp diễn, thay đổi bộ mặt trái
đất, theo lẽ vô thường của trời đất.
Lửa trong Tứ Đại bao hàm không những lửa trong lòng đất, lòng biển mà
cả trên trời
Nếu không có mặt
trời, trái đất sẽ rất lạnh; nếu không có mặt trời sẽ không có cây cỏ.
Chính cây cỏ với năng lượng mặt trời thông qua sự quang hợp đã hút chất
CO2 trong không khí và nhả ra oxy, giúp cho động vật sinh trưởng.
Trên kia là nói về khoa học trái đất, còn nếu nói về Phật pháp, Đức Phật
ví ba cõi con người tức Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới như căn nhà lửa
đang bốc cháy.
Cõi Dục giới là cõi thân, khẩu, ý còn nhiều ô nhiễm, còn tham sân si, cõi
Sắc giới là cõi cao hơn dục giới, đang gắng đến gần bờ giác, cõi Vô sắc
giới là cõi cao nhất, không tham dục và thức thì chánh niệm rõ ràng, tĩnh
lặng sáu căn, đi vào thiền định. Muốn đưa chúng sanh ra khỏi căn nhà lửa
thì Đức Phật dùng 3 cỗ xe (Tam thừa) là Thinh văn thừa, Duyên giác thừa
và Bồ tát thừa để đưa chúng sanh ra khỏi căn nhà lửa:
- Thinh văn thừa là giáo pháp của Đức Phật Thích Ca dạy tu theo Tứ Diệu
Đế. Tại sao gọi là Thinh văn? Là vì nhờ nghe Tứ Diệu đế mà nhập Đạo nên
gọi là Thinh văn.
- Duyên giác thừa là giáo pháp dạy tu theo mười hai nhân duyên. Tại sao
gọi là Duyên giác ? Là vì nghe cái lí Thập nhị nhân duyên mà giác ngộ nên
gọi là Duyên giác.
- Bồ tát thừa là giáo pháp dạy tu gồm Lục độ ba la mật (bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, trí huệ). Bồ Tát là tự mình giác ngộ, lại còn nguyện
đem giác ngộ của mình mà giảng dạy chúng sinh cùng được giác ngộ (tự giác
nhi giác tha).
Còn nhớ Đức Phật đã dạy cho đệ tử Rahula: Con hãy học cách hành xử của Lửa.
Lửa có thể đốt cháy mọi thứ, dù là những cái xấu xa dơ bẩn mà lủa không
vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Tại vì lửa có khả
năng thiêu đốt và chuyển hoá tất cả những gì người ta đem tới. Nếu Tâm con
không kỳ thị, không vướng mắc, con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hoá mọi
bất công và oan ức và những thứ ấy sẽ không thể nào xáo trộn được hạnh phúc
và bình an trong con.
2.2 Đất (Địa đại): Nếu phân loại theo địa mạo, ta có từ trên cao
xuống dưới: đất núi, đất đồi, đất bãi, đất cồn v.v… Nếu phân loại theo hoá
học, ta có đất mặn (nhiều ClNa), đất phèn (nhiều Sulfat), đất cà giang (nhiều
CO3Na2). Nếu phân loại theo màu sắc, ta có đất đỏ, đất nâu, đất đen v.v…
Nếu phân loại theo cách sử dụng, ta có : đất xây dựng, đất nông nghiệp,
đất trồng rừng.
Tuy chữ Đại và chữ Thổ, tiếng Việt đều gọi là đất nhưng thật ra có ý nghĩa
khác nhau. Chữ Anh khi nói về chữ Địa thì dịch ra là LAND
còn khi nói về chữ Thổ thì có nghĩa là SOIL. Địa theo nghĩa
địa hình, địa mạo. Thổ như thổ cư (đất nhà ở, xây dựng), thổ canh (đất trồng
trọt). Nhưng dù là Địa hay Thổ thì thoạt đầu cũng do đá bị phân hoá, bị
xói mòn do mưa, do gió với thời gian để tạo ra các núi đồi, các thung lũng,
các châu thổ. Đất được tạo thành cho thực vật bám rễ. Không có thực vật
thì không có động vật, kể cả con người. Không phải đất nào cũng trồng trọt
được: các đất vùng sa mạc không nuớc, khô khan nên chỉ có vài cây thưa thớt:
đó là trường hợp sa mạc Sahara, sa mạc xứ Namibie, sa mạc Tân Cương. Nhưng
cũng có những đất phì nhiêu như đất phù sa dọc sông ngòi:
Quê ta mát đất phù sa,
Trồng rau, rau tốt, trồng cà cà sai
Quê ta lắm bắp nhiều khoai,
Đồng trong chắc lúa, bãi ngoài xanh dâu
Dâu xanh, xanh ngắt một màu,
Xóm làng đan né, rủ nhau chăn tằm
Ruộng vườn, ta bón ta chăm,
Cho dâu đầy lá, cho tằm thêm tơ
Các nền văn minh lớn của nhân loại như văn minh Ai cập, văn minh Trung Đông
là phát xuất từ những dòng sông lớn như dọc sông Nil, dọc sông Tigre và
sông Euphrate. Đó là vì nhờ đất phì nhiêu, tạo căn bản cho một nên kinh
tế trù phú. Mỗi loại đất có chức năng khác nhau vì cây cối cũng nhiều loại
:
Đất màu trồng đậu trồng ngô
Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn
Từ nắm đất trong tay, ta có nắm xôi của thằng Bờm (Thằng Bờm có cái quạt
mo…) Triết lí của thằng Bờm đang đói cần nắm xôi trước hết là để cứu cái
khổ vật chất cấp bách trước khi cứu cái khổ tinh thần. Từ nắm đất đó mà
bao nhiêu đời dòng họ, tổ tiên, chúng sinh đã hoà mình trong đó và nó chứa
tiếng vọng ngàn đời vào tàng thức cộng thể.
Đất là chỗ thấp, hứng chịu mọi thứ dơ bẩn, tượng trưng cho sự khiêm cung.
Đất nhận các loại phân mục, phân chuồng, phân hữu cơ, phân hoá học để chuyển
hoá thành các chất cần cho thực vật. Đất để người ta dẫm chân lên mà đất
không hề oán thán, tượng trưng cho sự nhẫn nhục. Nhẫn nhục không phải cắn
răng chịu đựng trong mọi tình huống. Khi ta quán chiếu vào nội tâm, hiểu
được những nỗi đau và trăn trở của người khác thì ta có thể hiểu được người
kia, đó là khả năng thấu cảm (empathie), giúp ta nhẫn nhục được và tâm ta
sẽ an, sẽ vô lượng và sống sẽ an vui.
Trong kinh Phật, địa ngục là nơi đày các phạm nhân bị lỗi nặng lúc còn sống,
còn Địa tạng vương bồ tát là vị Bồ tát cai quản cõi âm. Ngài Địa Tạng có
phát nguyện ngày nào địa ngục còn có người chịu hình phạt đau khổ, ngày
đó ta chưa lên cõi Phật.
Đức Phật có lần dạy tu sĩ Rahula như sau : Con hãy học cách hành xử của
đất, dù người ta có đổ và rải lên đất những thứ tinh sạch và thơm tho như
hoa hương, nước ngọt và sữa thơm hoặc người ta có đổ lên đất những thứ hôi
hám và dơ dáy như máu mủ, nước tiểu và phân rác thì đất cũng tiếp nhận mọi
thứ ấy một cách thản nhiên, không vướng mắc tự hào cũng không oán hờn hay
tủi nhục. Vì đất có dung tích rộng lớn, có khả năng tiếp nhận và chuyển
hoá. Nếu tâm ta rộng lớn và vô lượng như đất thì con cũng có thể tiếp nhận
và chuyển hoá tất cả mọi bất công và oan ức và những thứ ấy sẽ không thể
làm cho con buồn tủi và khổ đau.
2.3 Nước (Thuỷ đại): Nước cũng là một trong Tứ Đại trong
vũ trụ. Tục ngữ ta có câu: « Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống » đủ
thấy ngay tầm quan trọng của yếu tố nước. Chúng ta ở Canada là một quốc
gia nhiều tài nguyên nước chất chứa trong vô số hồ, với tuyết băng giá vào
mùa đông, nhưng lại có nhiều quốc gia thiếu nước như Turquie, Syrie, Irak
thường xảy ra tranh chấp về phân phối nước của lưu vực sông Tigre và sông
Euphrate. Các xứ như Jordanie, Palestine, Israel cũng tranh giành tài nguyên
nước của sông Jordan. Giòng nước sông Mekong cũng vậy, liên hệ đến hàng
triệu dân đồng bằng châu thổ ở Việt Nam ở cuối nguồn nước.
Trong kinh Phật cũng thường nhắc đến cát và nước sông Gange (sông Hằng)
v.v… Trên trái đất này, nếu không có mặt trời và nước thì không có sinh
vật sống được. Nếu diện tích Trái Đất là 510 triệu km2, thì riêng Đại dương
đã chiếm 361 triệu km2, nghĩa là 71%. Phần lớn nước trên hành tinh này là
nước mặn đại dương chiếm đến 97%, còn lại 3% nước trên đất là nước ngọt.
Nếu phân loại nước theo hoá học, ta có nước ngọt, nước phèn, nước lợ, nước
mặn :
- Nước ngọt (không phải là nước xá xị đâu !) có những đặc tính như nước
mưa, uống được, dùng trong sinh hoạt.
- Nước phèn là nước chứa nhiều sắt và nhôm, có nồng độ acid lớn nên không
uống được.
- Nước lợ (nước chẻ hai) là nước pha giữa nước ngọt và nước mặn, gặp ở các
vùng trung gian giữa ngọt và mặn.
- Nước mặn là nước gần vùng cửa biển chứa nhiều clorua natri (ClNa).
- Nước có thể trong veo như trong các suối đầu nguồn :
Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
và nước cũng có thể đỏ ngàu như nước chứa nhiều phù sa mùa lũ lụt.
Nếu phân loại
nước theo đối tượng sử dụng thì nước có thể dùng trong:
- Lãnh vực nông nghiệp như nước tưới ruộng, tưới rau cải v.v…
- Lãnh vực kỹ nghệ như nước dùng trong các công kỹ nghệ nhà máy giấy,
nhà máy đóng đồ hộp.
- Lãnh vực năng lượng như trong các nhà máy thuỷ điện.
- Lãnh vực sinh hoạt gia cư như nước nấu ăn, rửa chén, giặt áo quần…
Tế bào sống hầu như 3/4 là nước và không nước, con người sẽ mau chết hơn
là không ăn.
Nước gặp nóng sẽ bốc hơi lên cao, ngưng hơi thành mây. Có mây trắng hiền
hoà trôi:
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
như trong thơ Quang Dũng hoặc :
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Bạch vân thiên tải như du du) trong bài thơ nổi tiếng Hoàng Hạc Lâu,
nhưng cũng có mây đen vần vũ báo hiệu cơn mưa lũ.
Nước không những có trên mặt (surface water) mà còn có dưói đất, tức nước
ngầm (undergroundwater) như nước giếng. Mọi ô nhiễm trên đất đều chảy
vào nuớc mặt rồi xuống nước ngầm do đó rác sinh hoạt, chất thải rắn v.v…
cần được đốt hoặc ủ rác thay vì thả xuống kênh mương.
Nước đục có các bùn lơ lửng, nếu ta gạn đục, chờ mọi chất bùn lắng xuống
thì nước sẽ trong, tượng trưng các phiền não lắng xuống, bỏ hết bùn có
nghĩa dứt lìa căn bản vô minh. Lóng nước đục là : Biết chỉ (ngừng lại
các vọng niệm, vọng ngữ) rồi sau mới định. Định rồi sau mới tĩnh. Tĩnh
rồi sau mới an :
CHỈ --> ĐịNH -> TĨNH --> AN.
Tâm quân bình và an tịnh chỉ xuất hiện khi ta lắng dịu. Tâm quân bình
và xả bỏ có thể tiếp cận với cuộc sống và sự vận hành của các pháp mà
không bị dính mắc.
Nước tượng trưng cho vô thường. Như triết gia thời Thượng cổ Hi Lạp có
nói: “Ta không thể tắm hai lần trong một dòng sông”, dòng nước luôn luôn
thay đổi tại một địa điểm nhất định: nó chảy xuống, không chảy lên, cuốn
trôi hết.
Và Đức Phật cũng dạy tu sĩ Rahula như sau: Con hãy học cách hành xử của
Nước. Nước có thể tiêp nhận mọi thứ rác rến dơ bẩn một cách thản nhiên,
không vướng mắc tự hào, không oán hờn vì nước có dung tích rộng lớn, có
khả năng tiếp nhận mọi dơ dáy ô nhiễm mà không buồn tủi… Nếu tâm ta rộng
lớn và vô lượng như nước thì con cũng có thể tiếp nhận và chuyển hoá tất
cả mọi bất công và oan úc.
2.4 Gió (Phong đại): Gió là không khí chuyển động mà
không khí (khí quyển) là tối cần cho sinh vật. Khi ta thở, ta hút O2 và
trả lại CO2 cho không khí; cây hút chất CO2 và nhả lại oxy cho con người.
Chỉ nói riêng về gió theo nghĩa hẹp, ta có thể phân loại gió :
2.4.1 Theo cường độ:
Gió nhẹ:
- Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
(thơ Hàn Mạc Tử ).
- Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi (thơ Bàng Bá Lân).
-Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
(thơ Huy Cận)
- Êm như hơi gió thoảng cung tiên
Cao như thông vút, buồn như liễu
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên
(Thế Lữ)
Gió mạnh:
- Đùng đùng gió dục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần mây bay
(Kiều).
- Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
(Thế Lữ).
2.4.2 Theo nguồn gốc:
- Gió Nam:
Lạy Trời cho chóng gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn xuôi buồm chóng ra
- Gió Bắc (Bấc) thường lạnh vì từ miền Bắc Á thổi xuống
- Gió Tây ở Việt Nam còn gọi gió Lào vì bên Lào, mùa hè là mùa mưa mà
bên Việt Nam là mùa nắng. Khi gió thổi từ Lào qua, nó vứt bỏ ảm độ trên
các sườn núi Tây Trường Sơn để khi xuống sườn Đông Trường Sơn thì đã khô
ráo nên rất nóng làm khô cây cối ở miền Trung.
Trong kinh Phật, có lời Phật dạy Rahula: Con hãy học cách hành xử của
gió; Gió có thể tiếp nhận, thổi đi và chuyển hoá mọi mùi hương, dù thơm
hay thối mà không vì thế mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường.
Tại vì gió có khả năng xua đuổi và chuyển hoá tất cả những gì người ta
đem tới. Nếu Tâm ta không vướng mắc, con cũng có thể tiếp nhận và chuyển
hoá mọi bất công và oan ức.
Để tóm lược ý nghĩa tâm linh của Tứ Đại, không gì bằng các câu sau đây,
trích trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (phẩm Ba mươi mốt Công Đức Chân
Thật) :
Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng;
Thanh tịnh như nước, tẩy sạch trần cấu;
Hừng hực như lửa, đốt sạch phiền não;
Không dính như gió, không các chướng ngại.
3. Lửa, đất, nước, gió trong con người:
Trong con người thì đất tượng trưng cho sự rắn chắc: đó là xương thịt,
hệ thống tứ chi, nước là chất lỏng (hệ thống tiêu hoá như nước miếng,
nước tiểu và hệ tuần hoàn như máu), gió tượng trưng bởi hơi thở (hệ thống
hô hấp),và lửa là năng lượng nhờ thức ăn, thức uống.
Bốn chất trong tứ đại bổ túc và hỗ trợ cho nhau và phải hài hoà, thiếu
một thì thân phải hoại. Ví dụ : thiếu không khí ta sẽ chết. Máu không
điều hoà như áp huyết cao cũng sẽ đứt mạch máu. Thiếu năng lượng do không
có thức ăn cũng chết mà nhiều thức ăn uống quá sẽ béo phì và người cũng
chết.
Protein, chất liệu của ADN trong tế bào đều đã cấu trúc từ 4 nguyên tố
C,H, O, N mà nói cách nào đó là từ lửa (Carbone), nước (Hydrogène), gió
(oxygène), và đất (Nitrogene) tức cái mà Phật học đã dùng từ “tứ đại”
đất - nước – gió - lửa.
Ngoài phần vật chất (Sắc) gồm đất, nước, gió, lửa như vừa nói, con ngưòi
còn có phần tinh thần gồm có : Cảm giác (Thụ), tư tưởng phân biệt, suy
xét (Tưởng), hành động của ý chí (Hành), tâm thức, trung tâm của ba thứ
tình cảm, lý trí và ý chí nói trên (Thức). Trong tế bào con người có 23
cặp nhiễm thể và trong mỗi cặp nhiễm thể thì một cái do cha, một cái do
mẹ di truyền đến người con.
4. Tương
quan giữa tứ đại trong vũ trụ và trong con người:
Đất, nước, lửa, không khí trong vũ trụ tạo ra một tổng hợp gọi là môi
trường thiên nhiên với các vùng đất và khí hậu hàn đới, vùng đất và khí
hậu ôn đới, vùng đất và khí hậu nhiệt đới, vùng đất và khí hậu xích đới
v.v… Nhưng cái môi trường địa lí thiên nhiên (physical geography) cũng
tác động lên môi trường địa lí nhân văn (human geography) vì con người
phải thích nghi với thiên nhiên để sinh tồn hoặc phải tranh đấu với thiên
nhiên (xây dựng hệ thống đê điều, đào kinh mương để thoát lũ) để sống
còn. Các danh từ thông dụng như trúng gió, cảm lạnh, nước độc v.v… đều
đã nói ngay cái ảnh hưởng của tứ đại.
Nếu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thì ngược lại, ngoại
cảnh cũng có ảnh hưởng lên con người : ở xứ Quebec này, mỗi năm đâu mấy
tháng nắng. Cái lạnh triền miên với mùa đông tuyết phủ cũng tác động lên
sức khoẻ tinh thần.
Văn hoá y phục cũng tùy khí hậu: người Phi châu như ở quanh sa mạc Sahara
thì bận áo quần rộng để dễ thoát hơi, màu trắng để mặt trời phản chiếu
ra ngoài thay vì phải hấp thụ như áo màu đen; người vùng có nhiều mưa
lũ thì phải trồng lúa vì lúa thích nghi với đất ngập; như vậy văn hoá
y phục, văn hoá ẩm thực v.v… tóm lại địa lí văn hoá (cultural geography)
cũng khác nhau. Ta có thẻ kể ra muôn vàn thí dụ như trên để chứng tỏ các
mối tương quan giữa Thuỷ đại, Hoả đại, Phong đại, Địa đại.
Phong đại (khí quyển) với không khí, nhiệt độ, mưa nắng hai mùa
ảnh hưởng đến đất đai; nhiệt độ khí quyển có ảnh hưởng đến nhiệt độ đất.
Tại các xứ nhiệt đới, nhờ nhiệt độ nóng quanh năm nên có thể làm nhiều
vụ trồng trọt quanh năm, khác với các xứ ôn đới như Canada, trồng trọt
hoa màu chỉ 6 tháng mùa hè còn mùa đông, đồng tuyết bao phủ không trồng
tỉa gì được. Gió trong thời tiết tác động lên thực vật : các vùng thường
có bão làm cây cối dễ ngã, gió Lào làm cây khô vì rất nóng.
Thuỷ đại (thuỷ quyển) với nước sông suối, hồ ao cũng ảnh hưởng
đến hoa màu. Thiếu nước sẽ gây hạn hán, ảnh hưởng đến an toàn lương thực.
Hạn hán thì nước mặn tràn vào sông sớm hơn nên con người không có nước
để uống. Nước ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Địa đại (thạch quyển) với đất đai dĩ nhiên tác động lên
lương thực thực phẩm; nếu đất bị xói mòn, nếu con người phá rừng, giết
sinh vật thì sẽ làm đa dạng sinh học (biodiversity) bị mất đi, làm nguồn
gen trong thảo mộc bị tiêu diệt nên dần dà không còn vật liệu di truyền
để lai tạo.
Hoả đại liên hệ đến năng lượng mặt trời, đến đất đai
nghĩa là đến khí quyển, thạch quyển.
Biết rằng có sự tương quan giữa vũ trụ và con người, có nghĩa là phải
có tâm Từ, tâm Bi với trái đất. Với sự bùng nổ dân số, tài nguyên thiên
nhiên như đất, như nước bị thay đổi rất nhiều. Đất bị ô nhiễm với phân
bón, bị xói mòn kéo theo lụt lội còn nước cũng bị ô nhiễm do rác sinh
hoạt, chất thải kỹ nghệ đổ xuống kinh rạch sông ngòi còn không khí cũng
ô nhiễm với khói xe cộ, khói nhà máy.
Cái rối loạn sinh thái này, các nhà khoa học gọi là một en-tro-pi
sinh thái (ecological entropy) nghĩa là bị hỗn loạn: ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nước, ô nhiễm đất, đất đai bị sa mạc hoá, mặn hoá,
băng tuyết tan làm nước biển dâng lên gây lụt lội như cảnh diễn tả trong
phim The day after to-morrow. Không khí ô nhiễm thì ta bị dị ứng. Nước
ô nhiễm thì ta bị đau bụng.
Có tâm Từ, tâm Bi với trái đất nghĩa là gì?
Từ: là híến tặng hạnh phúc, làm những gì cho trái đất
ít ô nhiễm, ít bụi bặm, có màu xanh hơn với trồng rừng, cải tạo đất, tránh
xói mòn v.v… Bi: là làm cho nguời ta bớt khổ đau, bớt
bệnh tật hiểm nghèo.
Như vậy tứ đại trong vũ trụ ngày nay bị mất thăng bằng mà sự mất hài hoà
là một động cơ kéo theo suy trầm về sức khoẻ con nguời. Mọi việc đều tương
quan với nhau như nhà Phật thường nói: cái này có vì cái kia có ; mọi
việc có nhân, có quả, có duyên chằng chịt.
Ta sống nhờ vay mượn của thiên nhiên với hơi thở vay mượn, với nước vay
mượn và khi cơ thể này chết đi, bốn yếu tố gió, đất, nước, lửa lại trở
về thế giới tự nhiên.
Tóm lại ta chỉ ở đậu, ở trọ trên trái đất này, đúng như các câu hát :
- Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trên khe nước nguồn
- Chiều nay em đi phố về
thấy đời mình là những quán không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
- Em đi qua chuyến đò ơi a thấy con trăng đang nằm ngủ
Con sông là quán trọ mà trăng tên lãng du
Em đi qua chuyến đò ới a vui như ngày hội
Tôi xin làm quán đợi buồn chân em ghé chơi
7. Kết luận
Tuy phân tích thành từng yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa để dễ thảo luận
nhưng thật ra như trên kia đã trình bày, không có các ranh giới giữa 4
phạm trù vừa kể. Chúng tương quan, tương nhập mà tinh thần Phật học gọi
là “Tất cả là Một và Một là Tất cả”. Vạn vật đều cùng chung một bản thể
mà nhà Phật gọi bằng nhiều tên khác nhau như Bản lai diện mục, Chân Như,
Thực tánh Thực Tướng. Trái đất này là Một, -một không có nghĩa là 1, 2-
mà là toàn thể (holism, do chữ whole).
Đó cũng là luận thuyết GAIA. Gaia là một từ ngữ Hi Lạp
cổ về nữ thần của Trái Đất Ngày nay, người ta sử dụng danh từ này để mô
tả một hệ thống trong đó đại dương, khí quyển, khí hậu và vỏ trái dất
được điều chỉnh lần nhau dể có sự sống: vũ trụ này là một thực thể sống
động tương tác với những dòng chảy năng lượng luân lưu.
Ngay cả hạt gạo tuy nhỏ nhưng cái tiểu vũ trụ này chứa đựng cả sương đêm,
cả mặt trời, cả đất trong đó. Quan niệm Gaia với Trái Đất - Quê Hương
buộc ta có một cái nhìn tổng thể, cái nhìn Huyền đồng. Trên hành tinh
này, vạn vật nương nhau mà sống: cái này có vì cái kia có, vì mọi hệ sinh
thái đều là những hệ thống mở, nghĩa là có trao đổi vật chất và năng lượng
giữa chúng: rừng cây sống là nhờ đất, đất phóng ra các dưỡng liệu nuôi
cây là nhờ nước; nhưng nếu không có lửa của mặt trời thì không có quang
hợp và cây sẽ chết.
Như vậy, Trái Đất này không chỉ là một hành tinh vật lý cộng với một bầu
sinh quyển cộng với một nhân loại mà là một tổng thể phức tạp có tính
vật lý / sinh lý / nhân loại. Con người chỉ là một thành phần của Thiên
Nhiên do đó phải vượt lên tinh thần nhị nguyên, không phân biệt, không
vướng mắc những vòng xích mê chấp, có tâm vô lượng và có bổn phận làm
cho Trái Đất được tươi đẹp hơn, biến tinh cầu lưu lạc trong vũ trụ này
thành cái bến bờ cứu rỗi của chúng ta, từ dó có sự an nhiên tự tại trong
cuộc đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét