Nguyễn Đức Hiệp
Bài học ở nhiều nước
cho thấy, giá phải trả khi không áp dụng và thi hành luật môi trường về
lâu dài sẽ là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận trước
mắt. Tác nhân thường lại không gánh chịu hậu quả mà là xã hội, người dân
và thế hệ sau gánh chịu.
Ngày nay doanh nghiệp không thể không coi vấn đề môi trường là ngoại
vi, không quan trọng hay cần thiết trong mọi hoat động của mình nữa. Nó
có ảnh hưởng vào mục tiêu chủ yếu (bottom line) của mọi doanh nghiệp:
đó là mực lãi doanh thu tài chánh trong hạch toán các sản phẩm của doanh
nghiệp. Có trách nhiệm về môi trường không những làm hình ảnh và sản phẩm
của công ty được người tiêu dùng đánh giá cao và thưong hiệu có giá trị
mà còn có thể giảm đi giá thành tiết kiệm được nhiên liệu, giá hoạt động.
(1) Ba chủ yếu cơ bản (The triple bottom line, TBL) trong hạch
toán.
So sánh chi phí đầu tư và lợi ích thu được từ việc đầu tư cho bảo vệ
môi trường, các nghiên cứu về kinh tế cho thấy mặc dầu lúc ban đầu các
doanh nghiệp bỏ ra một chi phí trong thời gian ngắn hạn nhưng lại có lợi
ích dài hạn về sau cho cả nền kinh tế ảnh hưởng tốt đến sự hoạt động của
tất cả các doanh nghiệp. Ngay cả áp dụng chính sách giảm phế thải, phung
phí trong sản xuất, điều hành và hoạt động của doanh nghiệp sẽ giảm chi
phí đầu ra của doanh nghiệp rất nhiều. Kinh nghiệm từ các trường hợp cải
tiến việc sử dụng năng lượng, dùng vật liệu tái chế, dùng máy móc, các
cơ sở văn phòng được xây dựng không tiêu thụ nhiều năng lượng ở các công
ty nhiều nước như Úc, Mỹ, Nhật... cho thấy sự lợi ích của giảm phế thải
và phung phí và vì thế lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên. Chính sách
phát triển sạch và "xanh" nay được nhiều doanh nghiệp áp dụng
tự nguyện vì lợi ích kinh tế của chính doanh nghiệp áp dụng chính sách
trên. Vì thế ý niệm về ba chủ yếu cơ bản (triple bottom line) của hoạt
động doanh nghiệp đã dần dần được coi là cơ bản trong hạch toán và điều
hành doanh nghiệp.
Ở các nước đã phát triển, hiện nay ngoài sự bắt buộc phải có bản tường
trình hạch toán theo luật, nhiều công ty đã có bản tường trình tài chính
hàng năm trong đó ý niệm ba chủ yếu cơ bản đã được dùng. Tuy chưa phải
là tiêu chuẩn bắt buộc nhưng được chính phủ khuyến khích với các hướng
dẫn cụ thể dựa trên sự đồng thuận của các tổ chức hạch toán, kinh tế,
môi trường và cơ quan chính phủ. Doanh nghiệp không còn là một cá thể
đứng riêng biệt ngoài xã hội, môi trường sống chỉ có mục đích duy nhất
là tìm lợi nhuận cho riêng nó. Nếu mỗi năm hạch toán của công ty cho thấy
có lợi nhưng nếu giá trị của xã hội, tài nguyên môi trường bị hao tổn
thì nếu tính vào hạch toán “tổng thể” thì có thể là sự mất mác “lỗ lã”
lớn cho xã hội con người. Hạch toán trị giá tổng thể là một quan niệm
dựa vào 3 giá trị “Con người, trái đất và lợi nhuận” (People, Planet and
Profit).
Doanh nghiệp cam kết có trách nhiệm xã hội trong hoạt động của mình hàm
ý có cam kết hạch toán dựa vào ba mục tiêu chủ yếu cơ bản phải đạt được
trong hoạt động của doanh nghiệp: trách nhiệm với xã hội, trách nhiệm
với môi trường sống và cuối cùng là lợi nhuận.
Các cơ quan môi trường của chính phủ đã nêu lên sự cần thiết và sự tự
nguyện của các công ty để tường trình về khả năng, biện pháp và thực thi
các phương pháp giảm ô nhiễm, lãng phí tài nguyên môi trường trong sự
phát triển có tính cách bền vững của doanh nghiệp mình.
(2) Vai trò thực thi luật môi trường: trách nhiệm và ý thức của
doanh nghiệp vào lợi ích chung của xã hội
Bài học ở nhiều nước cho thấy, giá phải trả không áp dụng và thực thi
luật môi trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi
nhuận. Tác nhân thường không gánh chịu hậu quả mà là xã hội, người dân
và thế hệ sau gánh chịu.
Giá trị của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức
và cảm nhận của người tiêu dùng sẽ được tăng khi thương hiệu đó còn có
những hoạt động xã hội do công ty chủ quản đề ra và thực hiện. Có nhiều
nghiên cứu cho thấy những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lãnh
vực tiếp thị quảng cáo cho công ty hơn so với các phương pháp tiếp thị
truyền thống cổ điển. Người tiêu thụ hiện nay ở một số nước đã phát triển
đã bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi trường, môi sinh tác động
qua các sản phẩm hay dịch vụ kinh tế . Họ sẵn sàng bỏ ra thêm hay trả
giá cao hơn cho các sản phẩm, dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường mang
hiệu “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp tích cực có trách
nhiệm về môi trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của
công ty. Sự xuất hiện của những “làng ung thư” liên tục trong thời gian
gần đây cho thấy, cái giá phải trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt.
Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã thải
chất thải không được xử lý đúng tiêu chuẩn. Theo ông Trần Hồng Hà, Cục
trưởng Cục Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT, cho biết, tính đến tháng 6/2006,
Việt Nam có 134 khu Công nghiệp, khu chế xuất, trong đó, chỉ có 33 khu
đã có công trình xử lý nước thải tập trung. Các khu Công nghiệp, chế xuất
này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi năm, trong đó có hàng vạn tấn
chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây, trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp. Hồ Chí Minh,
chỉ có 2 khu Công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải. Hàng năm, các nhà
máy trong khu Công nghiệp, khu chế xuất tại Tp.Hồ Chí Minh thải ra gần
63.000 tấn chất thải rắn. Con số này tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các
nhà máy ngoài khu Công nghiệp. Đoạn sông Thị Vải kéo dài trên 10 km từ
xã Long Thọ (Nhơn Trạch, Đồng Nai) cho đến thị trấn Phú Mỹ (Tân Thanh,
Bà Rịa-Vũng Tàu) bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
(3) Doanh nghiệp cần chính sách hỗ trợ để sử dụng công nghệ thân
thiện với môi trường như thế nào?
Ngoài phổ biến thông tin cập nhật, trước hết chính phủ cần phải có một
chính sách giúp doanh nghiệp thích ứng với những đòi hỏi của xã hội và
thế giới bên ngoài thay đổi theo chiều hướng và nhận thức chung của thế
giới trong thời đại toàn cầu hóa mà Việt Nam bắt đầu tích cực tham dự
sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thí dụ, các hàng xuất
khẩu nông nghiệp và công nghiệp ở một số nước gần đây đã bị trả về hoặc
thu hồi do sự kém chất lượng, tác hại vào môi trường và an toàn sức khoẻ.
Và khuynh hướng hiện nay là để nâng cao chất lượng cho sản phẩm và thương
hiệu của mình trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp vì thế đã dần
áp dụng tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu về bảo vệ môi sinh, bảo đảm an toàn
trong quá trình sản xuất từ vật liệu đến sản phẩm sau cùng, thậm chí sao
cho sản phẩm cuối đời có thể được tái chế hay dễ được sinh hủy không gây
ô nhiểm đến môi trường. Ngoài luật trong nước liên quan đến môi trường
mà các doanh nghiệp sản xuất phải tuân theo, vai trò của chính phủ do
đó trong lãnh vực kinh tế là tạo ra một môi trường cạnh tranh với các
cơ chế khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn sản xuất phù hợp, các dịch vụ môi
trường và sự xử dụng các kỷ thuật bảo vệ môi sinh và an toàn sản phẩm
có sức cạnh tranh trong và ngoài nước.
(a) Chuẩn ISO 14000 và chuẩn thực hiện nông nghiệp tốt (Good
Agricultural Practice, GAP)
Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, ngoài trách nhiệm trong
chính sách chung về phát triển bền vững, sự lợi ích về kinh tế cho doanh
nghiệp về lâu dài sẽ cao hơn khi doanh nghiệp đầu tư và áp dụng chuẩn
ISO 14000 về quản lý môi trường. Các chuẩn trong hệ chuẩn ISO 14000 mà
các doanh nghiệp lớn và nhỏ có thể áp dụng chủ yếu liên quan đến thiết
lập hệ thống quản lý môi trường, thanh lý môi trường, nhãn hiệu thân thiện
với môi trường trên sản phẩm ISO 14000, đánh giá hiệu suất về môi trường,
đánh giá chu kỳ từ sản xuất đến kết thúc của sản phẩm trong môi trường.
Để đáp ứng đòi hỏi ở một số thị trường xuất khẩu, một số công ty, doanh
nghiệp Việt Nam như công ty dệt Phong Phú Q9, Việt Tiến, hải sản Bình
An (Cần Thơ).. đã áp dụng hệ chuẩn ISO 14000 và có những kết quả khả quan
trong sự cạnh tranh ở các thị trường này.
Về lãnh vực các sản phẩm nông nghiệp, để có thể xuất khẩu cạnh tranh
trên thị trường các nước trong WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
áp dụng và hội đủ các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm tuân theo hệ thống
thực hiện nông nghiệp tốt (Good Agricultural Practice, GAP) mà hiện nay
nhiều nước đang áp dụng.
Hiện nay trong khu vực ASEAN, một số nước như Thái Lan, Mã Lai, Singapore,
Phi Luật Tân đã triển khai và bắt đầu áp dụng hệ thống chuẩn nâng cao
chất lượng an toàn thực phẩm, ít tác hại vào môi trường và an toàn cho
lao động trong quá trình sản xuất, thâu hoạch, chế biến nông phẩm. Dự
định trong tương lai gần, ASEAN sẽ đề ra tiêu chuẩn chung gọi là AseanGAP
dựa vào các chuẩn đang được thực hiện ở các nước trên. Chính phủ Việt
Nam vì thế nên đề ra một chuẩn tương tự và khuyến khích các doanh nghiệp
trong nước áp dụng để sửa soạn cho sản phẩm của mình có chất lượng cao
về độ an toàn, không tác hại vào môi sinh và sức khoẻ con người. Áp dụng
được chuẩn này sẽ giúp cho nông dân và doanh nghiệp tạo ra được các sản
phẩm có sức cạnh tranh tốt vào thị trường thế giới, nhất là ở các thị
trường có tiêu chuẩn cao như Nhật, Mỹ và Âu châu. Không những sản phẩm
có sức cạnh tranh về chất lượng mà giá thành và rũi ro sẽ được giảm nhiều
v à tạo được tiếng tốt cho thương hiệu của các doanh nghiệp áp dụng chuẩn
GAP.
Hệ thống chuẩn GAP cho sản phẩm nông nghiệp cũng giống như chuẩn ISO
14000 cho sản phẩm công nghiêp. Hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nước
đã ý thức tầm quan trọng của chuẩn ISO 14000 và áp dụng vào trong quá
trình sản xuất sản phẩm. Đây không phải là vì luật pháp bắt buộc mà là
sự sống cò n của thương hiệu và của chính doanh nghiệp.
(b) Chính sách dùng vật liệu tái tạo
Chính quyền trung ương và địa phương cũng phải có chính sách làm dễ dàng
hơn cho doanh nghiệp tham dự vào sự việc chung bảo vệ môi trường tài nguyên.
Thí dụ ở các thành phố, chính sách dùng vật liệu tái tạo (recycled materials)
như giấy, hộp, plastic, trai lọ.. được khuyến khích và thực thi qua xử
lý hai loại rác từ các hộ trong thành phố với hai loại thùng rác khác
nhau. Trước hết chính sách này có thể được áp dụng ở các thành phố lớn,
nơi mà xử lý chất thải rắn (chưa kể việc xử lý chất thải y tế) là một
vấn đề lớn rất trầm trọng ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, để giảm áp
lực vào các bãi rác chôn. Và từ đó có thể áp dụng ở các nơi khác. Song
song với việc thực hiện chính sách này là sự giáo dục quần chúng qua nhiều
phương tiện khác nhau để có được hiệu quả cao. Khi đã có nơi cho phép
xử lý khác nhau của các loại phế thải trên, doanh nghiệp cũng vì thế cũng
sẽ áp dụng chính sách này trong phạm vi rác từ doanh nghiệp. Vừa có lợi
cho doanh nghiệp vừa có lợi cho môi trường và xã hội.
(c) Cơ chế
phát triển sạch (Clean Development Mechanism ,CDM)
Việt Nam đã thuận ký và phê chuẩn Hiệp định UNFCCC (UN Framework Convention
on Climate Change) của Liên Hiệp quốc về Thay đổi Khí hậu năm 1994 và
Nghị định thư Kyoto năm 2002. Một trong những hệ quả về kinh tế và có
ảnh hưởng ít nhiều đến doanh nghiệp là Cơ chế Phát triển sạch (Clean Development
Mechanism, CDM). Theo nghị định thư Kyoto thì các nước đã phát triển cho
đến năm 2012 phải cắt mức thải khí nhà kính CO2 trung bình khoảng 5% dưới
mực thải năm 1990. Để có thể đạt được chỉ tiêu này, các nước đã phát triển
(đa số là trong Liên hiệp Âu châu) có thể có những công trình giảm khí
thải ở các nước đang phát triển để lấy tín dụng qua giảm khí thải từ các
công trình này, hoặc mua lại tín dụng từ các doanh nghiệp trực tiếp thực
hiện các công trình này. Đây là một cơ chế giúp đở kinh tế và chuyển công
nghệ sạch sang các nước đang phát triển.
Kinh tế của các nước trên thế giới càng ngày càng tùy thuộc lẫn nhau
trong thời kỳ toàn cầu hóa. Trái đất chỉ có tài nguyên giới hạn nhất định,
vì thế để tránh sự lạm dụng thiên nhiên mà hậu quả sẽ làm nguy hại không
những đến đời sống kinh tế của một quốc gia, mà sự sống còn của con người
và mọi vật, thế giới cần có một sự cải tổ toàn diện về hệ thống tài chính,
thương mại quốc tế để có một cơ chế giúp đỡ sự bảo tồn sự phát triển bền
vững giữa các quốc gia. Quan trọng hơn là sự thay đổi khí hậu là sự kiện
có ảnh hưởng lớn nhất về kinh tế trong các năm sắp tới. Hiện nay một số
các thể chế, tổ chức trên thế giới như World Bank, Asia Development Bank
(ADB) đã bắt đầu có sự điều chỉnh qua sự chấp nhận, khuyến khích, thực
hiện và tham dự vào thị trường cơ chế phát triển sạch. Một thí du là các
đề án đang thực hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh thiết lập các công trình
dùng khí thải từ các bãi rác chôn để làm chất đốt và sản xuất điện. Số
lượng khí Methane (CH4) dùng có khả năng hâm nóng tương đương với số lượng
chất khí nhà kính CO2 sẽ được dùng làm tín dụng (credit). Và tín dụng
CDM này có thể bán được trên thị trường Carbon ở thị trường chứng khoán
CDM ở Âu châu và Chicago (Mỹ).
Ngoài ra 2% thuế trên mổi lần chuyển giao dịch trong cơ chế phát triển
sạch được xung vào quỷ thích ứng với sự thay đổi khí hậu để giúp đở các
nước chịu nhiều thiệt hại nhất, như ngập lụt, hán hán, thiên tai do sự
thay đổi khí hậu gây ra. Quỷ này hiện nay được gọi là Quỷ môi trường thế
giới (Global Environment Fund, GEF).
Sự hiểu biết và thông tin về CDM ở các doanh nghiệp trong nước không
được thấu đáo và chưa áp dụng rộng rãi để làm cho sản xuất doanh nghiệp
có hiệu quả cao không những có lợi cho doanh nghiệp về kinh tế, lợi nhuận
mà còn tăng giá trị của thương hiệu sản phẩm qua sự giảm tác động sản
phẩm đến môi trường. Đây là trường hợp có lợi cho tất cả: doanh nghiệp,
xã hội, thế giới và môi trường. Hiện nay ngoài một số doanh nghiệp Việt
Nam như các công ty xi măng VinaCement, Sông Đà, nhà máy phát điện dùng
gas Hiệp Phước, nhà máy giấy.., nhiều công trình CDM khác để cải tiến,
hiện đại hóa các nhà máy để giảm khí thải là do đối tác nước ngoài như
Hàn quốc, Nhật, Đan Mạch, Áo.. chủ động bỏ vốn để lấy tín dụng CDM.
(d) Đền bù Carbon (Carbon offset)
Thay đổi khí hậu là một vấn đề đang được chú ý và quan tâm ở nhiều nơi
trên thế giới. Trước mắt ở vài nơi như Úc, sự thiếu nước trầm trọng ở
lưu vực sông Murray-Darling, một “vựa lúa” lớn đáng kể nhất Úc châu, do
nạn hạn hán gây ra từ vài năm nay. Năm 2007 là năm nước bị thiếu hụt trầm
trọng nhất, có thể không đủ để cung cấp nước sinh hoạt cho các thành phố
trong vùng, chưa nói tới cung cấp cho canh nông, có thể sẽ có ảnh hưởng
sâu rộng vào nền kinh tế của Úc. Vấn đề này được nhiều người cho là do
sự thay đổi khí hầu từ sự gia tăng khí nhà kính trên thế giới.
Không những chỉ ở Úc có những diễn biến thay đổi khí hậu mà ở nhiều nơi
trên thế giới đã và đang có trong các năm gần đây nhiều sự thay đổi đột
ngột và lớn lao về khí hậu có ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế của dân
chúng trong vùng.
Hiện nay ở một số nước người dân đã có ý thức muốn đóng góp hoàn trả
lại những gì mà họ gây ra tác hại đến môi trường gây ra sự thay đổi khí
hậu khi sử dụng dịch vụ hay tiêu thụ sản phẩm gây ra khí thải nhà nóng.
Họ đã tự nguyện trả thêm tiền để một tác nhân hay một công ty nào thay
họ lấy lại carbon khí thải (như trồng lại cây, rừng ở một vùng khác ..).
Các công ty cung cấp dịch vụ (như hảng máy bay Jetstar, Virgin) đã mở
quỷ “đền bù carbon” ("carbon offset") để các khách hàng có thể
bỏ vào để "đền bù" khí thải carbon dioxides gây ra vào môi trường
do họ sử dụng dịch vụ. Hiện nay thị trường "đền bù carbon" đã
có ở vài nước như Úc, Mỹ, Âu châu. Thị trường này vẫn còn nhỏ chưa chính
thức, phổ thông và bắt buộc không giống như thị trường theo cơ chế phát
triển sạch.
Trong tương lai, ở các nước đang phát triển và đã phát triển ở Á châu
thị trường này cũng sẽ được để ý đến khi các công ty hoặc doanh nhân tiên
phong có đầu óc thương mại phát triển.
(e) Doanh nghiệp sửa soạn cho sự thích ứng với môi trường thay
đổi
Đầu tháng 6, 2006, hảng bảo hiểm Lloyd ở Luân Đôn công bố bản tường trình
cho rằng kỷ nghệ bảo hiểm phải đứng ra tìm hiểu, nghiên cứu và quản lý
sự ảnh hưởng của sự thay đổi khí hậu vì các hảng bảo hiểm là chiến tuyến
hàng đầu của sự ảnh hưởng thay đổi khí hậu do phải bồi thường kinh tế
khi các thảm họa thiên nhiên xảy ra. Năm 2005 là năm tốn tiền nhất mà
kỹ nghệ bảo hiểm phải trả cho các thảm hoạ với tổng số tiền chi là $US83
tỉ, trong đó có $US65 tỉ từ các trận bảo Katrina, Rita và Wilma ở Mỹ (1).
Bản tường trình của Lloyd cho là kỷ nghệ bảo hiểm phải thích ứng xu hướng
tăng lên của khí nhà kính và ảnh hưởng của nó lên sự thay đổi khí hậu.
Nếu không sẽ phải đối diện với sự bồi thường càng ngày càng lớn từ nhiều
tai hoạ thiên nhiên tăng lần trong các năm sắp tới do sự thay đổi khí
hậu gây ra, và do đó sẽ bị phá sản. Bản tường trình của Lloyd tương tự
như bản báo cáo của công ty bảo hiểm Swiss Re cho rằng trong các năm tới,
thảm họa thiên nhiên sẽ tăng và vì thế các hảng bảo hiểm phải tăng tiền
bảo hiểm.
Cuối tháng 10 năm 2006, một bản tường trình về kết quả nghiên cứu do Sir
Nicolas Stern, cựu kinh tế gia của Ngân hàng Quốc tế (World Bank), về
ảnh hưởng của nóng toàn cầu vào kinh tế thế giới, đã được công bố. Đây
là nghiên cứu do Bộ Tài chánh Anh đảm nhiệm và tài trợ. Một công trình
đồ sộ và đầy đủ nhất từ trước đến nay về ảnh hưởng kinh tế của sự nóng
toàn cầu gây ra bởi con người.
Ông Stern đã trình bày kết quả cho các bộ trưởng môi trường và năng lượng
của 20 nước thải khí nhà kính nhiều nhất đang dự hội nghị ở Mexico. Ông
cho thấy rằng hành động lúc này với các biện pháp chống lại sự thay đổi
khí hậu sẽ tiết kiệm, chứ không phải tốn tiền của các chính phủ. Nếu chúng
ta không hành động, chúng ta sẽ đối diện với sự lụn bại, tụt lùi kinh
tế chưa tùng thấy kể từ thời khủng hoảng kinh tế và hai thế chiến trước
đây.
Ông David King, nhà khoa học hàng đầu ở Anh, cho thấy từ nghiên cứu này
“chỉ nội mực nước biển dâng lên, và ảnh hưởng của nó vào kinh tế thế giới
là trầm trọng thế nào khi các thành phố bị ngập bởi nước lut.. gây ra
sự di tản của hàng trăm triệu dân số”. Ông King cho rằng bản tường trình
của ông Stern phân tích rất chi tiết về lãnh vực kinh tế của sự nóng toàn
cầu và sẽ làm ngạc nhiên nhiều người vì tiến tốn chi tiêu để ngăn sự nóng
toàn cầu tương đối ít. Đây là sự thách thức lớn nhất mà hệ thống chính
trị thế giới phải đối diện. Một quyết định chung cần phải có bởi tất cả
các quốc gia quan trọng trên thế giới về những vấn đề hiểm nguy cho dân
số của các nước này. Ông so sánh hậu quả của sự thụ động không làm gì
về sự thay đổi khí hậu vì được coi là quá khó khăn với hậu quả của sóng
thần ở Á châu năm 2004. Trước đây các nhà địa chấn học đã dự báo là thảm
trạng có cơ xảy ra vì sự di chuyển của thềm lục địa từ trước và gần đây,
nhưng không chính phủ nào hành động theo lời cảnh báo trên, 30 triệu đô
la Mỹ là số tiền để thiết lập hệ thống báo sóng thần, có vẽ là số tiền
lớn nhưng hệ thống trên đã có thế cứu sống hơn 150000 người.
Sự hâm nóng toàn cầu do con người gây ra không còn chỉ là vấn đề môi
trường, mà còn là vấn đề phòng thủ. Một vấn đề cho tất cả ai có trách
nhiệm liên quan đến kinh tế và phát triển, canh nông, tài chánh, chuyên
chở, thương mại, y tế...
Đối với Việt Nam, sự thay đổi khí hậu có ảnh hưởng nhất là các tỉnh dọc
bờ biển và đồng băng sông Cửu Long và sông Hồng. Các doanh nghiệp cần
phải tham khảo kế hoạch chung của chính phủ trong công việc đối phó và
thích ứng với hậu quả do sự thay đổi khí hậu gây ra qua mực nước biển
dâng lên, bảo.. có ảnh hưởng lớn đến sản xuất trong nhiều lãnh vực kể
cả canh nông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét