LTS. Gần 20 năm tâm huyết với các vấn đề trên dòng Mekong cũng như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), bác sĩ Ngô Thế Vinh không chỉ là
một nhà văn với hai tác phẩm Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng
và Mekong
– dòng sông nghẽn mạch, ông còn là một nhà hoạt động
môi trường bền bỉ. Người Đô Thị có cuộc phỏng vấn với ông Ngô Thế Vinh về các vấn đề
nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL.
Băng
qua Biển Hồ đến khu Bảo tồn sinh thái Tonle Sap
(nguồn:
tư liệu Ngô Thế Vinh)
Thưa, dù đã 17 năm trôi
qua, bức tranh sống động mà ông “phác họa” về những tác hại khủng khiếp do các
con đập thủy điện gây ra cho đời sống người dân lưu vực sông Mekong vẫn còn nóng
hổi tính thời sự. Từ những dự cảm rất sớm về những hậu quả do các đập thủy điện
gây ra trên dòng Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng, ông nhận định gì về thực
trạng hiện nay?
Năm 2000, khi
nói “Cửu Long cạn dòng”, nhiều người xem đó là phát biểu "nghịch lý"
bởi đó là năm có lụt lớn ở miền
Tây. Một vị tu sĩ đang tất bật lo việc cứu trợ, mới nghe tên cuốn sách đã phát
biểu: "Đang lũ lụt ngập trời với nhà trôi người chết mà lại nói tới “Cửu
Long cạn dòng” là thế nào?” Nhưng cần
hiểu
rằng lũ và hạn tương ứng với
mùa mưa và mùa khô là chu kỳ tự nhiên đã có từ hàng ngàn năm trên dòng Mekong
và các vùng châu thổ, và đến nay thì mức độ ngày càng trầm trọng và gay gắt. Chúng
ta không thể đổ lỗi hết cho "thiên tai" mà cần can đảm gọi cho đúng
tên những yếu tố "nhân tai" bởi do chính con người gây ra qua suốt quá
trình phát triển không bền vững và có tính tự hủy từ nhiều thập niên qua đã
làm gãy đổ sự cân bằng của cả một hệ sinh thái vốn phức tạp nhưng cũng hết sức
mong manh của dòng Mekong. Một chuỗi những tai ương do chính con người gây ra
đó là: (1) Phá huỷ tự sát những khu rừng mưa trong toàn lưu vực. Những khu rừng mưa này có tác dụng như những tấm bọt biển khổng
lồ giữ nước trong mùa mưa, xả nước trong mùa khô với chức năng điều hoà lưu
lượng nước của dòng sông trong suốt hai mùa khô lũ, thì nay không
còn nữa; (2) Xây các con đập thuỷ điện không chỉ trên dòng chính mà ngay trên
khắp các phụ lưu sông Mekong từ thượng nguồn xuống tới hạ lưu, và đáng kể nhất
là chuỗi những con đập bậc thềm (Mekong
Cascades)
Vân
Nam của Trung Quốc. Hồ chứa các con đập ấy không những chỉ
giữ nước mà còn ngăn chặn phù sa như một dưỡng chất xuống vùng châu thổ ĐBSCL. Nguồn thủy điện cũng đưa tới kỹ nghệ hoá,
đô thị hoá với trút đổ các chất phế thải xuống sông gây ô nhiễm nguồn nước sông
Mekong; (3) Còn phải kể tới kế hoạch Trung Quốc
cho nổ mìn phá các ghềnh thác khai thông lòng sông Mekong để mở thuỷ lộ từ Vân
Nam xuống xa tới Vạn Tượng, Trung
Quốc
đã làm biến dạng toàn dòng chảy, gây xói lở trầm trọng các khu ven sông; (4) Cộng
thêm với những sai lầm về các kế hoạch thuỷ lợi tự phát ngay nơi ĐBSCL như be
bờ ngăn đập rồi tới nạn "cát tặc" ngày đêm nạo vét lòng sông... Tình trạng này gây thảm họa nhãn tiền:
nếu lụt thì sẽ
rất lớn ngay mùa mưa, hạn hán thì
sẽ
gay gắt hơn trong mùa khô và nạn ngập mặn ngày càng lấn sâu vào trong đất liền.
Như vậy chủ yếu là do các nguyên nhân nhân tai, nay cộng thêm với biến đổi khí
hậu, El Nino... là phần thiên tai cộng thêm vào. Không gọi đúng tên, đổ hết cho
thiên tai là một thái độ chối bỏ nguy
hiểm của giới chức Việt Nam hiện nay.
Trên dòng chính Mekong,
Trung Quốc đã và vẫn tiếp tục xây đập thủy
điện trên thượng nguồn; Lào xây đập dưới hạ nguồn; còn Thái Lan dẫn nước từ
dòng Mekong vào ngay cả mùa khô... Trong tình hình ấy, điều ông lo ngại nhất là
gì?
Bước vào thập
niên thứ hai của thế kỷ 21, sau khi Trung Quốc
đã hoàn tất hai con đập lớn nhất: Nọa Trác Độ (Nuozhadu) 5.850MW và Tiểu Loan (Xiaowan) 4.200MW, về tổng thể Bắc Kinh hầu như
đã hoàn thành kế hoạch thủy điện của họ trên suốt nửa chiều dài con sông Lan
Thương (Lancang) - là tên Trung Quốc của sông Mekong.
Theo Fred Pearce, Đại học Yale, con sông Mekong nay đã trở thành tháp
nước và là nhà máy điện của
Trung Quốc. Philip Hirsch, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sông Mekong thuộc ĐH
Sydney nhận định: “Hai con đập khổng lồ Nọa Trác Độ và Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng
trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam”. Chỉ
với 6 con đập dòng chính hoàn tất, Trung
Quốc đã đạt được công suất 15.150MW – nghĩa
là hơn một nửa toàn công suất tiềm năng thủy điện của con sông Lan Thương. Với
8 dự án đập còn lại, và có thể sẽ còn thêm nhiều dự án mới nữa, Trung Quốc sẽ dễ dàng dứt điểm sớm trong vòng mấy
thập niên đầu thế kỷ 21. Chúng ta không thể chỉ dựa vào một con số 16% lượng nước sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc, để bảo rằng ảnh hưởng chuỗi đập Vân
Nam là không đáng kể. Xây chuỗi đập Vân Nam, Trung Quốc đã
khởi đầu phá huỷ sự cân bằng bền vững của toàn hệ sinh thái trong lưu vực sông
Mekong. Dung lượng các hồ chứa Vân Nam ngoài khả năng giữ lại hơn 30 tỉ mét
khối nước còn chặn lại một trữ lượng rất lớn phù sa không cho xuống tới ĐBSCL. Thiếu
nước, thiếu phù sa lại thêm ngập mặn với nước biển dâng, cả một vùng đất phì
nhiêu ĐBSCL,
cái nôi của một nền văn minh miệt vườn,
có tương lai trở thành một vùng đất chết do sa mạc hóa.
Điều gì đáng lo ngại nhất hiện nay? Rõ ràng Việt Nam đã
mất cảnh giác và thiếu chuẩn bị trong cuộc chiến môi sinh "không tuyên
chiến" của Trung Quốc. Lời kêu gọi Trung Quốc xả nước từ hồ chứa Vân Nam
để cứu hạn cho ĐBSCL đã nói lên tình thế "bị động" của Việt Nam. Lẽ
ra giới lãnh đạo phải tiên liệu nguy cơ này từ nhiều năm trước. Nay lại thêm 9 dự
án đập dòng chính hạ lưu của Lào và 2 của Campuchia sẽ khiến cho bài toán cứu
nguy ĐBSCL khó khăn và phức tạp hơn nhiều, mà Việt Nam thì chưa có một chiến
lược đối phó.
Hiệp định Mekong 1995 được xem như là một cơ sở kiểm soát bảo vệ dòng
Mekong, tuy nhiên Trung Quốc từ chối tham gia. Tương tự, Công ước Liên Hiệp
Quốc 1997 về sử dụng các nguồn nước liên quốc gia, được Việt Nam thuận ký năm
2014, được biên soạn đặc biệt nhằm bổ sung và hạn chế những bất cập trong các
hiệp định lưu vực hiện có như Hiệp định Mekong 1995, cũng thiếu tên Trung Quốc.
Trong diễn tiến đó, Trung Quốc nay lại khởi xướng một diễn đàn mới: Hợp tác
Lancang - Mekong ra mắt tháng 11.2015. Ông nhận định như thế nào về cơ chế này?
Cơ hội của Việt Nam cũng như các nước trên lưu vực tham gia có thể là gì? Theo
ông, liệu Trung Quốc có động cơ gì đằng sau đó không?
Uỷ ban Sông Mekong (MR Committee) được Liên Hiệp Quốc
thành lập từ 1957, nhưng mọi dự án phát triển hầu như bị tê liệt do cuộc chiến tranh
Việt Nam. Sau 1975, bước vào thời bình, con sông Mekong trở lại là mục tiêu
khai thác của các quốc gia trong lưu vực. Nhu cầu phục hồi một tổ chức điều hợp
liên quốc gia tương tự như Ủy ban Sông Mekong trước đây là cần thiết. Ngày 5.4.1995,
bốn nước hội viên gốc thuộc lưu vực hạ lưu Mekong đã họp tại Chiang Rai, Bắc
Thái, để cùng ký kết “Hiệp ước Hợp tác
phát triển bền vững hạ lưu sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy hội
sông Mekong (MR Commission). Đại diện Việt Nam đặt bút ký vào Hiệp định Mekong
1995 là Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm với chấp nhận một thay đổi cơ bản trong hiệp
ước mới: thay vì như trước, mỗi hội viên trong Ủy ban sông Mekong (1957) có
quyền phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng
chính sông Mekong, nay theo nội quy mới (1995), không một một quốc gia nào có
quyền phủ quyết. Phát biểu trong Hội nghị Mekong 1999 tại Nam California, chúng
tôi nhận định đây là khởi điểm một bước sai lầm chiến lược của Việt Nam, vì là quốc
gia ở cuối nguồn.
Sáu nước lưu vực sông Mekong đang đứng trước nhiều vấn đề bức thiết liên
quan đến kinh tế, xã hội cũng như bảo tồn môi trường sinh thái. Tuy nhiên,
những khác biệt về yếu tố địa chính trị lại là rào cản không nhỏ trong tiến
trình hợp tác, và đặt ra bài toán phải giải quyết hài hòa lợi ích của mỗi quốc
gia. Theo ông, diễn biến chính trị ảnh hưởng như thế nào trong vấn đề hợp tác
vùng và phát triển vùng trên dòng Mekong? Viễn cảnh phát triển Mekong sẽ là như
thế nào trong bối cảnh biến đổi khí hậu?
Nhắc tới sự kiện Trung Quốc mới đây cho thành lập khối
Hợp tác Lancang - Mekong, một cơ chế bao gồm 6 nước cùng sử dụng sông Mekong, nhiều
người vội lạc quan cho rằng đó có thể là một phương tiện tốt để buộc Trung Quốc
quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của các nước hạ nguồn. Mối lạc quan đó có thể
đúng có thể không. Nhưng cần nhận thức rõ một điều: từ 1995, Trung Quốc chọn
đứng ngoài Ủy hội sông Mekong chỉ gồm 4 nước hạ lưu: Thái Lan, Lào, Campuchia,
Việt Nam. Tới nay với 6 con đập dòng chính, về tổng thể, Trung Quốc đã hoàn tất
kế hoạch thuỷ điện trên khúc sông Mekong 2.200km của họ. Nay nếu có mở ra thêm
khối Hợp tác Lancang - Mekong thì đó cũng chỉ là một bước chiến lược của Trung Quốc,
tạo cho mình một hình ảnh hữu nghị nhưng thực tế là nhằm tăng cường thêm ảnh
hưởng đưa tới khống chế toàn bộ lưu vực sông Mekong. Trung Quốc sẵn có khả năng
kỹ thuật, có nguồn tài chính hầu như vô hạn, Bắc Kinh thừa sức để gạt ảnh hưởng
của Hoa Kỳ và Nhật Bản ra khỏi lưu vực sông Mekong, cũng như họ đã đánh sập thế
thượng phong của Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ trên Biển Đông bằng các đảo chiếm của
Việt Nam rồi mở rộng xây dựng căn cứ quân sự trên đó.
Tương lai khối Hợp tác Lancang-Mekong ra sao, vẫn tuỳ
thuộc vào thiện chí rất đáng ngờ của Trung Quốc. Những ai từng theo dõi cách cách
hành xử của Trung Quốc trong bao năm nay, cũng nhận thấy là Bắc Kinh chưa hề có
Hồ sơ theo dõi tốt (Good track records).
Nhưng rồi cũng phải kể tới tiềm năng "chất xám"
mỗi quốc gia thành viên khi tham dự khối Hợp tác Lancang – Mekong, và quan
trọng hơn hết là liệu có được một mẫu số chung đoàn kết của các nước nhỏ hay
không. Thiếu một "tinh thần sông Mekong" nơi các quốc gia hạ lưu như
hiện nay (vẫn cái cảnh "đồng sàng dị mộng"), lại thêm ác ý như từ bao
giờ (Trung Quốc luôn luôn chia để trị), thì khối Hợp tác Lancang - Mekong chỉ là
chiếc dù tạo thêm ảnh hưởng quyền lực của Trung Quốc trên mỗi quốc gia hạ
nguồn.
Nếu Trung Quốc có thực tâm, phải đòi hỏi Bắc Kinh đi đến
một Hiệp ước Lancang - Mekong theo đó mỗi quốc gia thành viên phải được tôn
trọng và đối xử bình đẳng, có thể xem đây như một Ủy hội sông Mekong mở rộng
bao gồm thêm Trung Quốc và Myanmar.
Điểm qua tình hình hiện nay: Thủ tướng Campuchia Hunsen
gần như hậu thuẫn vô điều kiện chính sách của Trung Quốc; Lào thì bất chấp mọi
khuyến cáo vẫn từng bước thực hiện xây 9 con đập dòng chính Mekong (đang xây hai
đập Xayaburi và Don Sahong); Thái Lan không ngừng lấy nước từ sông Mekong cung
cấp cho các vùng khô hạn của họ; Myanmar thì không phải là yếu tố quan trọng
khi chỉ tiếp cận một khúc sông Mekong nơi vùng Tam giác vàng; riêng Việt Nam
gần như bị động và chưa có "một chiến lược trên bàn cờ Mekong" khi
quyết định tham dự khối Hợp tác Lancang - Mekong.
Điều cần làm ngay, là cấp thiết di chuyển Ủy ban Mekong
Việt Nam từ Hà Nội về ĐBSCL để cùng bắt tay hình thành một phân khoa Mekong nơi
ĐH Cần Thơ, giúp phái đoàn Việt Nam có một hồ sơ Mekong mang tính chiến lược,
có cơ sở pháp lý khi họ tới dự những hội nghị thượng đỉnh Mekong. Mekong Delta SOS phải là ưu tiên số
một trong nghị trình của hội đồng Chính phủ, của Quốc hội và cả của Bộ Chính trị.
Thảm hoạ đại hạn nơi ĐBSCL nếu cần phải đưa ra trước Diễn đàn của Liên Hiệp
Quốc.
Ông đánh giá thế nào về vai trò của tiếng nói cộng đồng, các tổ chức phi
chính phủ (NGO) trong bối cảnh
các quốc gia lưu vực sông Mekong còn nhiều quan điểm khác biệt? Ở Việt Nam,
theo ông, vai trò tiếng nói này hiện nay thế nào, và cần như thế nào?
Khi nhìn chung vào lưu vực 5 nước sông Mekong hạ nguồn (nay
có thêm Myanmar), một ký giả ngoại quốc nhận xét: tiếng nói của các cộng đồng
dân sự, các mạng xã hội Việt Nam về vấn đề sông Mekong được kể là "khá
hiếm" so với những tiếng nói của cư dân Bắc Thái Lan, người dân Lào và ngay
cả dân Campuchia. Điều này hầu như lại càng rất hiếm thấy nơi cộng đồng 20 triệu
cư dân ĐBSCL. Cũng dễ hiểu, đa số nông dân bị thiếu học với một nền giáo dục
thấp hơn cả Tây nguyên, lại thêm bị bưng bít thông tin thì làm sao bảo họ có
tiếng nói ngoài thái độ cam chịu. Tiếng nói của những "tổ chức được gọi là
NGO" thì luôn luôn luôn bị kiểm soát và định hướng bởi Nhà nước, và những
định hướng thiển cận như hiện nay đã triệt tiêu mọi sáng kiến từ các nguồn trí
tuệ. Nhưng dẫu sao, quan sát từ bên
ngoài, đã thấy ánh sáng nơi cuối đường hầm, đang có những nỗ lực tích cực từ
trong nước để hình thành những cộng đồng dân sự xã hội thực sự có tiếng nói,
nhưng dĩ nhiên có một cái giá phải trả cho những bước tiên phong ấy. Đó là một
tiến trình không thể đảo nghịch và cũng đã đến lúc Nhà nước ý thức được rằng họ
không thể tạo nút chặn cho cả một xu thế thời đại.
Biển
Hồ: Mùa khô 2.500 km2 (trái), mùa mưa 12.000 km2 (phải)
Biển
Hồ nay thoi thóp, không còn co giãn với hai mùa mưa nắng
và
đang cạn dần (nguồn: Tom Fawthrop)
Cảm nhận của ông như
thế nào về vai trò của các nhà khoa học Việt Nam hiện nay trong "bài
toán" sông Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng? Họ cần có "cơ
chế" gì để tiếng nói thực sự đạt hiệu quả?
Tuy chưa có dịp
được gặp hết, chúng tôi vẫn theo dõi sinh hoạt của các nhà khoa học Việt Nam từ những năm qua. Họ đã và đang phải làm việc trong những
điều kiện vô cùng khó khăn, nhưng nỗ lực của các anh chị ấy để cất tiếng nói bảo vệ một
hệ sinh thái lành mạnh cho Việt Nam tuy thầm lặng đã được nhiều người
biết đến. Từ bên ngoài, chúng tôi luôn quan niệm "bài toán" sông
Mekong và cứu nguy ĐBSCL là phải từ các nhà khoa học và giới trẻ trong nước. Việt
Nam không hề thiếu chất xám nhưng giới khoa học ấy không có phương tiện, không
có tự do hoạt động ngay cả trong môi trường đại học. Có thể đi tới một kết luận:
"dân chủ và môi sinh" phải là bộ đôi không thể tách rời.
Tôi cũng cho rằng, cứu vãn được nhịp đập của “trái tim
Biển Hồ” là giải pháp khả thi cứu nguy cho các vùng châu thổ Tonle Sap
Campuchia và ĐBSCL của Việt Nam, dĩ nhiên với cái giá rất cao mà Việt Nam không
thể không hợp tác với Campuchia mà đầu tư vào.
Từ hai tác phẩm về Mekong của ông còn cho thấy ông có một kho dữ liệu quý
về văn hóa, lịch sử, môi trường... liên quan đến 4.800km dòng Mekong, từ Tây
Tạng đổ xuống Biển Đông, nơi hơn 65 triệu cư dân sinh sống. Đó là những tư liệu
chuyên ngành chẳng liên quan gì đến nghề bác sĩ của ông cả. Nên nếu được tự nói
về mình, ông nhận mình là một bác sĩ, nhà văn, nhà báo, hay là một khoa học?
Tốt nghiệp Y khoa Sài Gòn năm 1968, hành nghề y khoa trong
nước rồi ra hải ngoại hơn 40 năm, y khoa đã như một phần đời sống không dễ tách
rời của tôi. Khi còn là sinh viên, tôi viết văn, làm báo, hoạt động xã hội cùng
với những người trẻ đồng trang lứa. Thế hệ chúng tôi không chỉ có học tập mà còn
rất quan tâm tới các vấn đề đất nước, riêng tôi về sau này còn có mối quan tâm đặc
biệt tới các vấn đề môi sinh, trong đó có con sông Mekong và ĐBSCL. Cùng với nhóm
Bạn Cửu Long, chúng tôi đã thực sự khởi đầu hoạt động từ 1995, đến nay cũng đã
21 năm rồi. Tôi đã được gán cho nhiều căn cước khác nhau, nhưng một cách khái
quát, nói như ký giả Long Ân, có lẽ đúng nhất tôi chỉ là con người xanh của môi
sinh.
Cám ơn ông!
Lê Quỳnh thực
hiện
Tạp chí Người Đô Thị 29.04.2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét