Tô Văn Trường
Tổng
quan
Nước là nguồn sống cho nhân loại. Các nhà khoa học đã thống kê tổng sản lượng nước
trên thế giới gồm: 97,5% nước biển (mặn) và chỉ 2,5% nước ngọt. Trong 2,5% này,
chỉ có 0,4% nước mặt gồm sông ngòi, ao hồ và hơi nước trong không khí, 30,1% nước
ngầm, và phần còn lại là những tảng băng trải rộng ở Bắc và Nam cực. Trong số 0,4%
nước mặt đó, có 67,4% nước ao hồ, 1,6% sông ngòi, 12,2% nước đã thấm vào đất,
9,5% hơi nước trong không khí, và phần còn lại gồm các vùng đất ướt. Theo ước tính, có 70% lượng nước trên thế giới được sử dụng cho nông nghiệp, 20% cho kỹ nghệ, và 10% cho sinh hoạt gia đình.
Sông
Mekong là một trong mười con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên
Tây Tạng có chiều dài hơn 4.800 km, diện tích lưu vực 795.000 km2,
lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 15.000 m3/s và tổng
lượng dòng chảy hàng năm 475 tỷ m3 tại châu thổ, chảy qua 6 quốc gia
là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Đến nay, 6 bậc thang thủy điện Trung Quốc
ở thượng nguồn sông Mê Công (Langcang) đã hoàn thành (từ 2012), nâng tổng số
dung tích hữu ích của các hồ ở Trung Quốc đã lên đến hơn 22 tỷ m3
nước. Từ khi hoàn thành, việc vận hành
các công trình này đã làm thay đổi đáng kể dòng chảy cả mùa lũ và mùa khô so
với qui luật tự nhiên, gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và khó khăn
cho điều hành sản xuất.
Hiện nay, Trung Quốc chỉ mới chia
sẻ các thông tin về mực nước ở hạ lưu trạm Cảnh Hồng (Jinghong) về mùa lũ (Tháng
6-10). Các nước hạ lưu nằm trong hiệp định Mekong (MRC) đã liên tục kiến nghị Trung Quốc chia sẻ các thông tin mực nước cả
về mùa khô từ 2010 đến nay nhưng vẫn chưa đạt được, kể cả kiến nghị ở Hội nghị
cấp cao của Mê Công năm 2010 tại Huahin Thái Lan.
Các
nước hạ lưu sông Mekong Lào, Campuchia có kế hoạch xây dựng 11 đập thủy điện,
hiện nay đang tiến hành xây đập Xayabury (chưa lấp dòng), dù có hoàn thành cả
11 đập này thì dung tích hữu ích của tất cả các hồ chứa cũng chỉ bằng 1/8 so
với dung tích hữu ích các đập thủy điện của Trung Quốc.
Nguyên
nhân hạn mặn khốc liệt ở đồng bằng sông Cửu Long
Có nhiều nguyên nhân sâu xa gây
ra hạn hán, kiệt,
xâm nhập mặn khốc liệt ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2016. Nhìn lại, năm 2015 do mùa mưa đến trễ, kết
thúc sớm, tổng lượng mưa trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ
20-50%.
Mực
nước Biển Hồ ở Campuchia rất thấp, trung bình khoảng 1,96m so với chuỗi số liệu trung bình nhiều năm
thời kỳ 1980-2013 và thấp hơn cùng kỳ năm 2014-2015 trung bình gần 1,1 m . Biển hồ Tonle Sap đã cạn nước, mất khả năng điều tiết bổ sung ngay từ cuối
tháng 12 (so với mọi năm là tháng 3-4) nên lượng nước về ĐBSCL càng ít.
Năm 2015,
ĐBSCL đã được coi là hạn lịch sử. Lũ năm
2015 là năm lũ nhỏ
và nếu tính tần suất
lũ từ 1961 trở lại đây thì vào khoảng trên 99%, và theo tài liệu quan trắc lưu lượng Q tại Kratie
vượt mức đảm bảo tưới
theo tiêu chuẩn Việt
Nam là 85% do vậy
hạn và xâm nhập mặn là điều không tránh khỏi. Họa vô
đơn chí, năm 2016 còn được coi là hạn
kiệt khốc liệt nhất trong vòng 100 năm nay như thanh gươm Damocles treo lơ lửng
trên đầu chúng ta!.
Mặn có nguồn gốc từ biển truyền vào nội đồng bằng con đường sông kênh theo dạng hình nêm tiến sâu dần vào nội đồng theo từng con triều và nó cũng rút lui hoàn toàn ra biển theo từng con triều.
ĐBSCL theo chế độ bán nhật triều, khi
triều lên đẩy nêm nước ngọt từ thượng nguồn chảy
về dềnh lên và tạo ra nêm ngọt (còn gọi là lăng trụ triều ngọt) từ sông
chính theo kênh rạch truyền sâu
vào nội đồng, triều rút thì các nêm ngọt này
cũng theo kênh
rạch rút theo chảy trở lại sông
chính rồi
xuôi dòng ra biển.
Hạn
kiệt ở ĐBSCL do hiện tượng Elnino gây ra là chính. Cách đây
vài chục
năm hiện tượng Elnino và
Lanina còn là
bí ẩn.
Ngày nay, các
nhà khoa
học đã chứng
minh được rằng chính
sự tương tác trong quá trình vận động của các đại hoàn lưu khí quyển và các dòng đại hải lưu trong lòng các đại
dương đã tạo ra
cơ chế tải nhiệt đến và
lấy nhiệt đi của nước biển trong khu vực quanh xích đạo biển Thái Bình Dương tạo ra hiện tượng Elnino và Lanina. Elnino thường gây ra hạn hán và ít mưa bão và ngược lại Lanina
thường gây ra bão lũ cho khu vực Đông Nam Châu Á . Nôm na mà nói cường độ mạnh
yếu của chúng được
đo đếm qua trị số tăng hoặc giảm của nhiệt độ nước trong khu vực quanh xích đạo biển Thái Bình Dương.
Con
người cũng chưa lường hết những hệ quả trong khi khai thác tài nguyên, bất chấp những hệ lụy của sự tác động môi trường, điển hình là các đập trên sông Mekong và quy
hoạch sản xuất không thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu và khả năng của
nguồn nước.
ĐBSCL
xâm nhập mặn năm nay đã xuất hiện ở mức độ cao hơn trung bình nhiều năm từ 5-15g/lít, vào sâu trong đất liền từ 50-
90 km, sâu hơn trung bình nhiều năm từ 10-20 km. Dự báo, trong thời gian tới,
mặn tiếp tục xâm nhập, ảnh hưởng lớn đến sản xuất của hàng
trăm nghìn ha lúa Đông Xuân, diện tích cây ăn trái, thủy sản và dân sinh. Bến Tre,
nhiều nơi dân phải mua 100 nghìn đồng/m3 nước dùng cho sinh hoạt. Ngay
cả thủy sản như hàu chết hàng loạt, làm hàng trăm hộ dân ở Bình Đại, Bến Tre phá
sản, trắng tay vv... ĐBSCL đã có 8/13
tỉnh thành công bố thiên tai do hạn mặn năm 2016 để nhờ Trung ương trợ cấp.
Gần đây, có
thông tin rất đáng quan ngại phía Thái
Lan đang tiến hành dự án lấy nước sông Mekong lên tưới vùng Đông Bắc của Thái
Lan sẽ càng làm cho tình hình nguồn nước sông Mekong thê thảm hơn. Loei
River (gần tỉnh Ubon Thani) là một phụ lưu
nhỏ nằm trong lưu vực (intra-basin) sông Mekong. Nếu người Thái chỉ lấy nước sử dụng trong giới hạn lưu vực thì chuyển nước (diversion) không vi phạm Hiệp định Mekong 1995. Trường hợp khi lấy vào mùa khô thì họ chỉ cần
thông báo diễn biến
nguồn nước qua mạng lưới quan trắc thuỷ văn của MRC. Chỉ e là sau khi nước lấy từ Loei River mà tiếp tục đưa nước ra
khỏi lưu vực thì dù có thông báo và tham vấn,
vẫn tác hại đến nguồn nước hạ nguồn sông Mekong, đặc biệt về mùa khô. Thái Lan
còn kế hoạch lấy nước từ dòng nhánh sông Mekong của Lào, hậu quả càng khó lường
vì hiện nay dung tích các đập thủy điện
dòng nhánh sông Mekong còn lớn hơn nhiều dung tích của 11 đập thủy điện
trên dòng chính sông Mekong của Lào và Campuchia.
Thủy điện trên sông Mekong và sông Hồng
Trên sông
Mekong có 3 hệ thống công trình:
- Các đập-hồ chứa dòng chính ở Trung
Quốc đã xây dựng gần hết.
- Các
đập-hồ chứa trên các sông nhánh: hồ sông nhánh ở Lào có dung tích cộng lại
là lớn nhất, vẫn còn xây chưa hết. Hồ sông nhánh ở Việt Nam
cũng có dung tích cộng lại lớn thứ nhì, và đã xây xong
hết. Hồ sông nhánh ở Thái Lan không đáng kể.
Hồ sông nhánh ở Campuchia chưa xây dựng. Không nói Biển Hồ.
- Các đập dòng chính trung hạ
lưu Mekong thì mới có Xayaburi
chưa xây xong, chưa có vai trò gì.
Vậy, khi ta nói tác dụng từ
thượng lưu Mekong thì chỉ có tác dụng từ hồ chứa Trung Quốc là lớn. Tác dụng thế nào? Về nguyên lý, hồ chứa sẽ làm tăng tổng lượng dòng chảy mùa khô nhưng có mâu thuẫn giữa phát điện và tưới hạ lưu
là ở chỗ sử dụng cái tổng lượng
ấy khác thời điểm
nhau:
- Thủy điện thuần túy muốn duy trì lượng điện đều đặn cả mùa khô, theo công thức công
suất N(KW) = n. QH. Trong đó n là nêta (hiệu suất) , hiện nay các tuabin
phát điện có thể đưa hiệu suất lến đến 0,8-0,95. Q là lưu lượng; H là cột nước. Đầu mùa khô tháng 1, 2, 3 thì hồ chứa còn đầy (H còn lớn), nên chỉ cần xả
ít nước (Q nhỏ); đến giữa và cuối mùa khô là tháng 3, 4,5 nước hồ xuống thấp, phải xả Q lớn dần lên để vẫn có công suất như
nhau.
- Nông nghiệp trái lại, ở miền Bắc và miền Trung thì đầu mùa khô cần nước tưới lớn để cấy (gọi là lúc ngả ải).
Chứ tháng 4 và
tháng 5 không cần nhiều
nước. Vì thế, Chính phủ bắt EVN phải xả, theo yêu cầu của Bộ NN & PTNT, cho hạ du sông Hồng hai lần trong tháng 1 và 2, EVN rất
cay đắng nhưng vẫn phải xả. Cay đắng vì phải xả vào lúc họ muốn
giữ, mà lại không xả vào hệ thống
thủy lợi mà xả xuống sông rồi nông nghiệp
lấy nước vào hệ thống
thủy lợi qua cống và/hoặc bơm,
nên chỉ sử dụng được khoảng 1/3 lượng xả thôi, còn thì nước trong sông vẫn chảy ra biển. Chưa kể là lòng sông Hồng đã xói sâu hơn trước, khiến cho mực nước ở cửa
cống thấp hơn thiết kế, lấy nước kéo dài, EVN càng kêu.
- Ở
Mekong thì có các tình huống khác
Hồ thủy
điện ở xa khu nông nghiệp, đặc biệt ĐBSCL ở quá xa, dòng chảy truyền từ hồ thủy điện của Trung Quốc về đến
ĐBCCL chắc là cả tháng. Tháng 2 vừa qua
(sau Tết) tự nhiên có một đợt nước về ĐBSCL lớn trong gần chục ngày (báo ta đưa tin
là các công trình ở ĐBSCL cũng đã tranh thủ lấy nước), thì cũng là tự Trung
Quốc làm, chứ ta không biết được vì sao họ xả lớn?.
Việt
Nam ở hạ lưu không thể yêu cầu hồ
thượng lưu xả theo ý muốn của hạ
lưu được, vì khác quốc gia, cùng là MRC còn không được,
huống chi Tàu không nằm
trong MRC (Hiệp định các nước hạ lưu vực Mekong) . Mà giả thiết họ xả thì cũng không thể theo ý muốn theo từng ngày của hạ lưu được, phi kỹ thuật.
Dọc trung lưu Mekong, Thái và Lào đều có
lấy nước bằng cống và
bơm, nhưng lượng ít
hơn hẳn ĐBSCL.
Lượng nước xả từ hồ của Trung Quốc đến Biền Hồ sẽ hút hết, chỉ còn lại
khoảng 3-4% lượng nước về đến ĐBSCL. VN
gửi công hàm cho Trung Quốc do Bộ Nông nghiệp &PTNT đề xuất, thì cũng coi là yêu cầu chính trị xã hội
vì
người dân. Mùa
khô thì Biển Hồ vẫn là nguồn tác động rõ nhất xuống
ĐBSCL. Mà Biển Hồ thì ngày càng bị bồi,
tác động xấu đến điều tiết nguồn nước cả mùa lũ và mùa khô..
Cảnh báo và dự báo của
giới khoa học trong nước
Từ lâu nay, Bộ KHCN đã quan tâm cho tiến hành các nghiên
cứu về nhận dạng lũ, kiệt, dự báo, cảnh báo về các tác động xuyên biên giới ảnh
hưởng đến ĐBSCL tiêu biểu như các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước:
- Đề tài
“Nhận dạng toàn diện về lũ, dự báo, kiểm soát và thoát lũ phục vụ yêu cầu chung
sống với lũ ở ĐBSCL”
- Đề tài
“Nghiên cứu quản lý lũ vùng biên giới Việt nam-Campuchia”.
- Đề tài “Nghiên cứu xâm nhập mặn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ven biển ĐBSCL” .
- Đề tài “Nghiên cứu đánh giá tác động tích cực và những tồn tại, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường của hệ thống công trình kiểm soát lũ vùng Tứ giác
Long Xuyên”
- Đề tài “Nghiên cứu đánh giá tác động
của các bậc thang
thuỷ điện trên dòng chính hạ lưu
sông Mêkông đến dòng chảy, môi trường kinh tế xã hội vùng ĐBSCL và đề xuất giải pháp giảm thiểu bất lợi”
- Đề tài
“Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ để điều chỉnh và pổn định các đoạn
sông có cù lao đang diễn ra biến động lớn về hình thái trên sông Tiền, sông
Hậu”.
Các kết quả chính đạt được:
-Là cơ sở khoa học để
các quy hoạch kiểm soát lũ sử dụng khi đề xuất các giải pháp công trình và
phi công trình trong kế hoạch triển khai đầu tư công của nhà nước.
-Đánh giá được hiện
trạng xâm nhập mặn
ĐBSCL , chiều dài xâm nhập mặn trên các cửa sông, diện tích ảnh hưởng
xâm nhập mặn, các tác động của xâm nhập mặn
đến kinh tế- xã hội vùng nghiên cứu;
-Nghiên cứu
chuyển đổi sử dụng đất các vùng ven biển phù hợp với các điều kiện
về nguồn nước (nghiên cứu xâm nhập mặn
cho một số kịch bản chuyển đổi, đề xuất chuyển đổi các vùng);
- Đề xuất
giải pháp cải tạo,
phục hồi một số vùng suy thoái nghiêm trọng
- Đánh giá được các ưu điểm và hạn chế của
hạ tầng thủy lợi trong việc giải quyết các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đề xuất được
giải pháp phát triển/nâng cấp hạ
tầng trong tương lai gần theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và biến đổi khí hậu.
- Đánh giá được các thay đổi có khả năng
xảy ra ở thượng lưu: dòng chảy, phù sa,... theo
các kịch bản vận hành, trong đó có xét đến thủy
điện dòng chính kết
hợp với thủy điện Trung Quốc. Đặc biệt, kết quả đánh giá khả năng
thay đổi dòng chảy do
thủy điện Trung Quốc trong thời gian qua đã cung cấp thông tin rất
hữu ích cho công
tác dự báo xâm nhập mặn ĐBSCL phục vụ công tác điều hành của Bộ NN
& PTNT..
- Đánh giá các tác động có
khả năng xảy ra ở hạ lưu (xâm nhập mặn, sản xuất nông nghiệp, thủy sản,...) theo các kịch bản phát triển lưu vực (thủy điện, nông nghiệp,
đề xuất được giải pháp (công trình, phi công trình) tập trung sâu vào các vùng ven biển, có xét cả phát triển thượng lưu và biến đổi khí hậu vv...
Quan điểm của chuyên gia quốc tế
Kết quả
Mekong Delta Study (MDS) do 2 công ty quốc tế của Đan Mạch và Mỹ dưới sự điều
hành của Bộ Tài nguyên & Môi trường, trực tiếp là Ủy ban sông Mekong Việt
Nam cho chúng ta bức tranh tổng thể và toàn diện về các tác động của 12 đập
thủy điện ở hạ lưu sông Mekong.
Tôi rất
quan tâm đến bài báo từ năm 2015 tiêu đề
“Mekong dams 'a grave threat to river' (Những con đập Mekong ‘mối đe dọa
kinh hoàng cho dòng sông’) trong đó, nêu
rõ: “Experts are warning that the Lower Mekong Basin may
soon face depleting fish stocks, further erosion of the coastline and rising
salinity that will make rice fields uncultivable”. Tạm
dịch “Các chuyên gia đang
cảnh báo rằng Lưu vực hạ lưu sông Mekong chẳng bao lâu nữa sẽ phải đương đầu
với tình trạng kiệt quệ nguồn cá, tình hình xói mòn gây sụt lở ven biển và gia
tăng nhập mặn sẽ là nguyên nhân làm cho đồng lúa trở thành nơi không canh tác
được nữa.”
Theo Marc Goichot,
chuyên gia về quản lý bền vững thủy điện và lưu vực sông làm việc tại cơ quan
WWF ở VN, thì ‘thực tế đang cho thấy điều đó rõ ràng hơn bao giờ hết’. Sông
Mekong hùng vĩ bị chặn dòng bởi con đập trên sông ở bắc Trung Quốc, và với 11 con đập nữa đang được
quy hoạch hoặc đang được xây dựng phần lớn số đập đó là ở Lào, sẽ làm giảm
nguồn cung cấp phù sa màu mỡ để bồi đắp bờ biển và giúp cho cá đẻ. Nạn khai
thác cát càng làm gia tăng xói lở ven biển cộng với việc hút nước ngầm để duy
trì đời sống dân cư đã gây ra tình trạng sụt đất do mức nước biển dâng khoảng
5mm mỗi năm. Ngập mặn ngày càng sâu vào trong đồng ở đồng bằng sông Mekong đang
đe dọa 13500 ha diện tích đồng lúa. Kết quả là dải đất ven biển dài 600 km ở
miền Nam Việt nam đang
bị lở dần và bị mất đất với tốc độ từ 4m đến 12m mỗi năm.
Trong những năm gần đây, những
cuộc thảo luận trong khuôn khổ Hiệp định sông Mekong (MRC) đều
rất căng thẳng. Năm 2011, Cambodia và VN đề nghị Lào đình việc xây đập trong 10
năm. Nhưng ngoài cơ chế được gọi là ‘tham vấn trước’ ra thì MRC thực ra không
có sức mạnh gì cả. Lào cứ tiếp tục xây dựng đập Xayabury công suất 1.285 MW,
bây giờ đã làm xong 60 phần trăm, và mới cách đây vài tuần đã thông qua công
trình đập nữa đầy tranh cãi là đập Don Sahong. Lào trông chờ vào việc xuất khẩu
năng lượng sang các nước láng giềng, chủ yếu là Thái lan, để thúc đẩy nền kinh
tế. Khu vực điện và khai khoáng đóng góp tới 17 phần trăm vào GDP của Lào và
chiếm gần 70 phần trăm tổng giá trị xuất khẩu. “Ở Thái lan, người ta lúc nào
cũng sẵn sàng mua thủy điện rẻ hơn từ Lào để thay thế cho các dự án nhiệt điện
bằng ga…. cho nên tôi không thấy có sự chậm lại nào đối với các dự án
điện” Thứ trưởng bộ Năng lượng Lào ông
Viraphonh Viravong phát biểu với Reuters bên thềm sự kiện Tuần Năng lượng Quốc
tế tại Singapore vv...
Hành động của chúng ta
Hiện tượng tự nhiên về gió mưa, hạn
lụt, nóng rét thường có qui luật,
con người nhận biết và có ứng xử phù hợp để hạn
chế tiêu cực , đồng thời khai thác hiệu quả lợi ích từ nó. Anh
Bảy Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang kể cho tôi nghe về bài học thuộc
lòng hồi còn cấp I
những năm 1950 dân ta đã ca ngợi cái
"Phong vũ biểu", trong đó có đoạn:
"Giận ai Trời nổi phong ba
Mưa sa nước đổ Sơn hà ngửa nghiêng
Đố ai đoán
được căn nguyên?
Đố ai đoán
được giờ thiêng
mới mầu?
Ngày
xưa Gia Cát, Trình Công (Trạng Trình)
Lần tay đoán
biết vũ phong lúc nào
Ngày
nay khoa học vượt cao
Vũ phong, bão tố thét gào bốn phương
Có phong vũ biểu tinh tường
Ghi giờ báo
trước chỉ đường cứu dân
Tuy không tài
thánh phép thần
Sức người âu
cũng theo lần hóa công"
Ngoài con người, vạn vật cũng biết thích ứng vơi thiên nhiên như: Con Ong đóng tổ trên cao dự báo mùa nước nổi
sẽ lớn hơn thường khi (lũ, lụt lớn).
Cây mọc nơi gió bão mạnh thì sẽ thấp, cong queo, dẻo sai. Cây mọc
nơi sa mạc thì ít lá, nhiều gai, chịu khô hạn, nóng....
Những hiện tượng
thời tiết có dấu hiệu
cực đoan hơn gần đây như rét
đậm, rét hại ở Miền
Bắc, khô hạn gay gắt
Miền Trung và Tây Nguyên,
hạn mặn xâm nhập sâu
ở ĐBSCL không chỉ mới xuất
hiện năm nay, tuy rằng năm nay nghiêm trọng hơn cả. Tất cả, đều được các cơ quan chức năng hữu quan quốc tế và quốc gia dự báo và nó cũng từ từ diễn ra không có gì lạ. Cái lạ là ngư dân ta đánh bắt ngư trường xa tận Đài Loan mà "ta không biết" để quản lý thiên tai nên bị bão số 1
Chanchu (5/2006) không vào VN mà ngư dân VN
chết hàng trăm
người, nhiều hơn các nước, vùng lãnh thổ
mà nó quét qua "rồi ta mới biết"!
Một bộ phận
không nhỏ dân nghèo nước ta ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, nhất
là các dân tộc thiểu số năm nào Chính phủ cũng phải xuất gạo cứu đói cả vạn tấn. Mỗi lần rét đậm, rét hại là trâu bò
chết...Những cái ta
"biết trước" đó ,
những người có trách nhiệm đã làm gì mà để đến khi xảy ra thì "la thiên tai", "la đói"???!!! Trong khi đó, ta xây trụ sở, hội trường, quảng trường, tượng đài hoành tráng hàng ngàn tỷ, lại hạn chế kinh phí đầu tư ứng
phó với biến đổi khí hậu, phải kêu gọi quốc
tế hỗ trợ?. Cái gọi là "thiên tai" và cái bất trắc
trong tính toán (qui hoạch) và cái tâm với dân của người có trách nhiệm vô hình trung
cộng hưởng thành cái thê thảm nhân sinh!
Năm ngoái,
các nhà khoa học đã cảnh báo diễn biến về nguy cơ hạn mặn nhưng vì sao Bộ NN
& PTNT vẫn để các địa phương phát triển lúa Đông Xuân ở cả vùng mặn nặng,
để rồi khi hậu quả xảy ra, lại kêu Trung ương cứu trợ!?
Giải pháp
Để ứng phó với tác động của hạn
hán, xâm nhập mặn năm 2015-2016, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống thiên tai, các bộ, ngành và địa phương đã có nhiều chỉ đạo và
triển khai công tác phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn. Tổ chức dự báo khí
tượng thủy văn, nguồn nước, xâm nhập mặn, phục vụ chỉ đạo, điều hành cấp nước
phục vụ sản xuất và dân sinh. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin liên
quan để các cơ quan và nhân dân biết và chủ động phòng, tránh hạn hán, xâm nhập
mặn. Xây dựng kế hoạch sử dụng nước hợp
lý; ưu tiên cấp nước cho sinh hoạt, nước uống cho gia súc, tưới cho cây trồng
lâu năm có giá trị kinh tế cao, nuôi trồng thủy sản và các khu công nghiệp. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất, theo hướng chuyển
dịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản để phù hợp với điều kiện
nguồn nước, bảo đảm hiệu quả kinh tế và an sinh xã hội.
Theo quan điểm của người viết
bài này, Elnino và Lanina đã xuất hiện trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng có từ rất lâu đời, và thường có chu kỳ dài ngắn khác nhau, nhưng là có quy luật khá rõ ràng. Vấn đề cần làm rõ ở chỗ không phải đòi hỏi chính xác nó xẩy ra lúc nào? mà là các nhà
quản lý
phải biết đưa các trị số tác
động của hai hiện tượng thời tiết này vào
quy hoạch ở tần suất bảo đảm để giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất và đời sống của người dân.
Chống mặn ở ĐBSCL nên tập trung hình thành hệ thống
công trình điều khiển mặn, điều
khiển tích
ngọt trên các trục kênh
chính
cấp I, về lâu dài
sẽ tùy tình hình diễn biến khí hậu, sản xuất, mặn, ngọt và
khả năng tài chính mà
suy tính đến các công trình điều khiển mặn-tích ngọt ở các
cửa sông
chính.
Trước mắt, các địa phương cần
phải tích trữ nguồn nước ngọt tối đa bất kỳ thời điểm nào xuất hiện nguồn nước
ngọt trên sông, kênh rạch nội đồng bằng các biện pháp đập tạm, bơm
(theo dõi dự báo mặn). Đồng thời, ở các vùng mặn nặng
như khu vực bán đảo Cà Mâu nên nghĩ sớm đến chuyển đổi các mô hình
sản xuất khác,
sử dụng các cây trồng
vật nuôi thích ứng với đất và
nước nhiễm mặn nặng,
đặc biệt là thủy sản nước mặn.
Nghiên cứu cập nhật các thông
tin tài liệu cơ bản, giúp cho việc lập
quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển
thượng nguồn. Trong đó đặc biệt
xem xét sự xâm nhập mặn do suy giảm dòng chảy thượng nguồn và triều cường, nước biển dâng ảnh hưởng đến vùng ven biển ĐBSCL và đề xuất các giải pháp thích ứng. Giải
pháp đưa ra nhằm phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn như:
- Giai đoạn trung hạn: với mức thiếu nước
chưa nghiêm trọng và xâm nhập mặn chưa sâu cần hoàn thiện các hệ thống đê, cống ven biển và cửa sông như hệ
thống Bắc Bến Tre, Nam Măng Thít, dọc sông Hậu thuộc Sóc Trăng, dọc biển Tây từ sông Đốc đến Hà Tiên (thuộc Bắc
Cà Mau và Kiên Giang), hệ thống phân ranh mặn ngọt từ trung tâm Quản Lộ-Phụng Hiệp qua Chắc Băng đến Tắc Thủ. Các cống kiểm soát lũ và trữ ngọt vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên cùng với hệ thống kênh được nạo vét sẽ tăng khả năng cấp nước nội vùng.
- Giai đoạn dài hạn: xâm nhập mặn sâu và nguồn nước
thiếu trầm trọng sẽ nghĩ đến phương án đầu tư các công trình trên sông
lớn như cống Cái Lớn-Cái Bé, cống Vàm Cỏ, cống Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu.
Hạn chế với các giải pháp công
trình này là việc dự báo dòng chảy thượng nguồn vào thời điểm 2011 chưa đạt độ tin cậy cao, do
thiếu các nghiên cứu cơ bản về tác động của thượng nguồn Mê Công. Một số công trình ở bán
đảo Cà Mâu cho đến nay vẫn còn chưa được khẳng định tính hiệu quả như cống Cái Lớn-Cái Bé, hệ thống phân ranh mặn ngọt chưa ổn định, giải pháp tiếp ngọt cho vùng nuôi trồng thủy
sản Nam Cà mau và ven biển Bạc Liêu, Sóc Trăng.
Việc phát triển kinh
tế vùng sinh thái
mặn theo quy hoạch tổng thể cũng như MDP (Hà Lan) đề xuất vẫn chưa có mô hình
ưu việt. Cần có nghiên
cứu khoa học để có luận cứ chắc
chắn hơn cho các giải pháp
thủy lợi trung hạn vùng và các công trình dài hạn trên sông lớn.
- Đề xuất giải pháp và tổ chức
quản lý vận hành hệ thống
thủy lợi nâng cao hiệu
quả tưới, tiêu của hệ
thống công trình. Đã lập quy trình vận hành hệ thống
thủy lợi Quản Lộ-Phụng Hiệp , đang lập quy
trình vận hành các hệ thống
công trình thủy lợi vùng tứ giác Long
Xuyên và Ô
Mon-Xà No nhưng hoạt động chưa hiệu quả vì sự phối hợp chưa chặt chẽ của các bên liên
quan và thiếu sự hỗ
trợ của cơ quan thường trực của Hội đồng hệ thống.
- Nâng cao năng lực phòng chống thiên tai: Dưới
sự hỗ trợ của cơ quan quốc tế UNDP đã tiếp cận xây dựng chiến
lược giảm nhẹ thiên tai cấp tỉnh để làm cơ sở (tiếp cận dưới lên) cho giải pháp chiến lược vùng và chiến lược
quốc gia. Tuy nhiên,
mới chỉ thực hiện thí điểm cho một số tỉnh đại biểu như Long An, Đồng Tháp và Cà Mau. Chiến lược quốc gia giảm nhẹ
thiên tai được phê duyệt khoảng 10 năm trước, đến nay cần cập nhật điều chỉnh và phải triển khai cụ thể hóa giải pháp chiến
lược, chương trình hành động cũng như tăng cường năng lực cho các địa phương, các hệ thống thủy lợi các vùng (nhất là ĐBSCL).
- Nghiên cứu nhận dạng toàn diện đường quá
trình dòng kiệt về ĐBSCL trong điều kiện có xét đến BĐKH và phát triển thủy
điện ở thượng lưu làm ảnh hưởng đến nguồn nước tưới cho phát triển nông nghiệp,
thủy sản và thay đổi diễn biến xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Xây dựng phương pháp dự
báo, cảnh báo đường quá trình dòng chảy kiệt
trong điều kiện có tác động của BĐKH và phát triển thủy điện ở thượng
lưu phục vụ dự báo, cảnh báo xâm nhập mặn.
Đề xuất giải pháp tổng thể về quản lý nước ở ĐBSCL phục vụ phát triển
bền vững nông nghiệp và thủy sản.
- Vấn đề phòng tránh, chủ động
ứng phó: Giải pháp duy nhất là
phải có
trước thông
tin dự báo. Đó là bài toán dự báo mùa. Thông tin dự báo nếu đến được người dân và nhà quản lý trước 3-6
tháng họ sẽ có kế hoạch
chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho
hợp lý, tránh xảy ra mất mùa.
- Hiện nay, chúng ta đang lo về số lượng
nước nhưng phải quan tâm đến cả chất lượng nước, trong đó ưu tiên hàng đầu là cũng cấp đủ nước sạch cho sinh hoạt người dân.
Khuyến khích động viên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KHCN tham gia vào các
dự án thủ nghiệm về xử lý ô nhiễm nguồn nước, cung cấp nước sạch cho dân sinh ở
ĐBSCL.
-
Ngày
10/03/2016, trước tình trạng khô hạn trên diện rộng ở miền Tây, Việt Nam đã gửi
công hàm cho Trung Quốc đề nghị xả nước ở đập thượng nguồn giúp cải thiện tình
hình như đã phân tích ở trên. Điều chúng ta cần kiến nghị là để đảm bảo giảm thiểu
thiệt hại cho sản xuất trên đồng bằng và chủ động điều hành sản xuất, phía Trung
Quốc cần chia sẻ, cung cấp các thông tin kế hoạch vận hành hàng năm tại thủy
điện Jinghong và mực nước hàng ngày tại Cảnh Hồng (hạ lưu Jinghong) cho cả năm
(hiện đã có thông tin chia sẻ mùa lũ). Thông báo trước các trường hợp vận
hành bất thường, ngừng xả, hay xả dưới 40% số tuabin tổ máy phát điện tại
Jinghong, ứng với lưu lượng xả về hạ lưu nhỏ hơn 1200 m3/s.
Kết luận
Nước là
nguồn tài nguyên quý giá, ngay cả nước mặn cũng là tài nguyên đối với nuôi
trồng thủy sản nước mặn, nước lợ nên từ lâu, ngành thủy lợi đã chuyển hóa tư
duy từ ngăn mặn (đập) sang kiểm soát mặn (cống điều tiết 2 chiều). Thủy lợi là
ngành phục vụ cho quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Điều cốt yếu là ưu tiên
hàng đầu cho công tác phi công trình như
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học về công tác dự báo, cảnh báo mùa,
chuyển đổi cơ cấu sản xuất, giống, cây trồng vật nuôi phù hợp điều kiện từng
địa phương và khả năng của nguồn nước, xây dựng hợp lý quy trình vận hành
hệ thống thủy lợi nội đồng vv...
Tôi chia sẻ
và đồng tình với quan điểm của WB là mô
hình sản xuất ở ĐBSCL cần ưu tiên từ ngoài biển là rừng phòng hộ, đến mô hình
sản xuất tôm rừng, đê, cống kiểm soát mặn, rồi tôm thâm canh, thủy sản nước
mặn, nước lợ, cuối cùng là vùng nước ngọt ưu tiên cho cây lúa và cây ăn trái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét